Thiên Địa Nghịch Lữ - Xuân Nhật Phụ Huyên
Chương 67: Khởi viết vô y
Từ ngày chia tay gia đình Ô Lan, lâu lắm rồi Tạ Yến Hồng mới lại được trải qua ngày tháng bình yên thoải mái thế này, không có truy binh cũng không cần chạy trốn. Đầu hạ ở vùng bắc địa vẫn hơi lạnh, trời cao mây trắng, tầm nhìn thông suốt, dãy Hồng Đào nhấp nhô gập ghềnh đến tận chân trời không có điểm cuối.
Đôi khi Tạ Yến Hồng sẽ cùng Nhan Trừng cưỡi ngựa ra ngoài giống như hồi còn nhỏ cả hai cùng cưỡi ngựa ra ngoại thành đạp thanh, chỉ là bây giờ Nhan Trừng luôn mang tâm trạng thất thần suy nghĩ. Tạ Yến Hồng hỏi, hắn lại ấp úng không nói nên lời. Phần lớn thời gian còn lại Tạ Yến Hồng chỉ cùng Trường Ninh ở chung một chỗ, mặc dù không làm gì vẫn cảm thấy cực kỳ thoải mái.
Tạ Yến Hồng vẫn duy trì thói quen luyện kiếm mỗi ngày, ở đây y không cần bẻ nhánh cây khô nữa mà được chọn một thanh trường kiếm đứng múa trên khoảng đất trống trước cửa phòng. Trường Ninh ngồi một bên chà lau trường đao, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên liếc nhìn một cái.
Ra một thân mồ hôi y mới thở hổn hển thu kiếm, nhìn Trường Ninh hỏi: “Thế nào?”
Trong tay Trường Ninh nắm một miếng vải mềm tỉ mỉ chà lau lưỡi kiếm, miệng nói: “Tốt lắm.”
“Tốt mới lạ ấy,” Tạ Yến Hồng nói, “Chắc chắn ngươi đang cảm thấy ta khoa tay múa chân, không đủ xem.”
“Không có.” Trường Ninh ôn hòa tiếp lời, hắn lau khô đao xong thì dùng mảnh vải sạch cẩn thận bọc lưỡi đao lại. Tạ Yến Hồng tò mò lại gần thử dùng hai tay nắm chuôi đao, hít sâu một hơi nâng lên, thanh đao chỉ hơi nhấc lên một chút rồi rơi mạnh xuống đất.
Trường Ninh liền vòng ra sau Tạ Yến Hồng duỗi tay vòng quanh y, hai tay nắm bàn tay y cùng thi lực, trường đao vung lên kéo thành một vạt trăng tròn, lúc hạ xuống mặt đất làm tung một lớp bụi mù, mặc dù lưỡi đao được bọc kín nhưng vẫn có uy lực ngàn quân.
Bụi bặm còn chưa bay hết thì chợt có người vội vàng xông tới, vừa thở vừa nói: “Nhan, Nhan đại ca… Nhan đại ca gọi ngài qua một chuyến…”
Tạ Yến Hồng vội hỏi: “Có chuyện gì?”
Tùy tùng Nhị Cẩu Tử của Nhan Trừng lắp bắp không nói nên lời, cuối cùng giải quyết dứt khoát: “Gấp, việc gấp!”
Tạ Yến Hồng vội kéo theo Trường Ninh cùng đi theo Nhị Cẩu Tử, dọc đường đi y gặp rất nhiều người to nhỏ thảo luận, còn mơ hồ nghe thấy mấy chữ “Cư Dung”, “quân Địch”. Lòng Tạ Yến Hồng lo sợ bất an liền quay đầu lại liếc nhìn Trường Ninh, hắn cũng nhíu mày như đang suy tư gì, thấy y nhìn mình liền cầm tay y trấn an.
Ngoài sảnh chính, Nhan Trừng ngồi trên cao, chân đạp đầu sói, mặt mày nghiêm túc. Lục Thiếu Vi ở bên cạnh tiều tụy như bệnh nặng vừa khỏi, cũng không có tinh thần gì mà ngồi nghiêng hẳn sang một bên ghế.
“Chuyện gì thế?” Tạ Yến Hồng vội vàng hỏi.
Nhan Trừng trầm giọng: “Đêm qua quân Địch xông thẳng qua Cư Dung Quan, tiến về Ngụy Châu rồi.”
Trong thành Ngụy Châu, cửa thành đóng chặt, toàn thành giới nghiêm. Trên thành lâu đầy rẫy binh lính, lương thảo và binh khí không ngừng được vận chuyển ra vào. Mặt ngoài mọi thứ trông rất gọn gàng ngăn nắp, nhưng nhìn kỹ bên trong mới thấy dù là sĩ tốt hay bá tánh đều lo sợ không yên.
Quân Địch di chuyển quá nhanh, vừa vào xuân là bắt đầu đông tiến hạ thành Sóc Châu, Đại Đồng, Cư Dung khổ chiến một trận vẫn phải hạ cờ đầu hàng. Ngụy Châu không dễ phòng thủ, phóng nhãn nhìn quanh chỉ toàn đất bằng trống trải, cực kỳ thích hợp tấn công bằng kỵ binh. Toàn bộ quân lương cần thiết đều đang chạy đua với thế tiến của quân Địch xuất quỷ nhập thần, không chừng người sau còn đến sớm hơn, ai nghe mà không sợ?
Vương Am có tuổi rồi, tóc đã bắt đầu điểm bạc mà hiện giờ đang ngày đêm sầu não, đi ngủ cũng không dám cởi áo giáp vì sợ quân Địch tấn công bất ngờ, khuôn mặt đẫy đà càng ngày càng nhọn hoắt. Hôm nay ông ta đang ngồi trên ghế bành ngủ gà ngủ gật, mới vừa chợp mắt đã bị thuộc quan xông vào đánh thức.
“Đại nhân! Không xong rồi!”
Vương Am giật mình tỉnh lại, trái tim hẫng một phách, vội vàng hỏi: “Sao lại không xong? Quân Địch tới à?”
“Không phải không phải!” Thuộc quan đáp.
Vương Am thở phào, lại bực tức cao giọng: “Nói nhanh lên! Đừng dông dài nữa!”
Thuộc quan nhìn quanh trái phải, tùy tùng trong phòng biết ý liền lui ra ngoài, lúc này hắn mới thì thầm nói nhỏ: “Có tin đồn Thánh nhân muốn dời đô!”
Vương Am chưa thở xong một hơi lại muốn ngừng thở, suýt nữa thì ngất xỉu tại chỗ. Ngụy Châu là đạo phòng tuyến cuối cùng bảo vệ kinh thành, nếu Ngụy Châu thất thủ, quân Địch chỉ cần vượt qua Hoàng Hà là Đại Lương xem như xong đời. Lúc này đây tuy trong lòng sĩ tốt sợ hãi nhưng dẫu sao vẫn còn chút nghị lực chống chọi, ai nấy đều mang trong mình trách nhiệm gánh vác tồn vong của đất nước. Thế nhưng nếu dời đô thật, kinh sư không cần bảo vệ nữa, vậy thì sĩ khí nhất định sẽ tuột dốc không phanh, không chiến tự bại.
“Tin tức ở đâu ra!” Vương Am lạnh giọng quát, “Mau chém kẻ đó!”
Thấy thuộc quan ấp úng mãi, Vương Am vỗ mạnh bàn làm mặt bàn suýt thì nứt đôi, bấy giờ hắn mới khó xử đáp: “Là quý nhân trong kinh tới…”
Vẫn là vị quan nội thị lần trước, khi đó là đầu xuân, người nọ truyền thánh chỉ của Thánh nhân phong Tôn Diệp Đình làm đốc quân Tây Bắc. Nội thị đi đường thủy dọc theo kênh đào hồi kinh, mông còn chưa kịp ngồi ấm lại lật đật mang theo một thánh chỉ khác về Ngụy Châu.
Lúc này, ý của Thánh nhân là muốn triệu Tôn Diệp Đình trở về.
Kẻ thù không biết bao giờ sẽ đánh tới, vị nội quan kia cũng không còn tư thái nhàn nhã lúc đầu, chỉ muốn mau mau đưa thánh chỉ rồi đi theo Tôn Diệp Đình hồi kinh sư.
“Các đại nhân trên triều đều ồn ào khuyên dời đô, Thánh nhân còn chưa quyết định nhưng rất nhiều thân hào phú hộ đã lục tục thu xếp hành lý rồi, chiếu vừa ban một cái là gồng gánh kéo nhau đi cả thôi,” Hắn nhỏ giọng kể, “Thánh nhân nể trọng đại nhân nên mới triệu về, đại nhân mau khởi hành hồi kinh đi.”
Tôn Diệp Đình đang bận như con quay để thúc giục viện binh và lương thảo, điều phối vũ khí, vốn không có bao nhiêu kiên nhẫn đi ngọt nhạt với vị quý nhân này. Nghe người kia nói xong, hắn ta giận đến nghẹn khí, phải mất một lúc lâu cho bình tĩnh xuống mới hỏi: “Dời đô? Điên hết rồi sao?”
Quan nội thị rụt cổ không dám nói lời nào, Tôn Diệp Đình vỗ bàn đứng lên truy vấn: “Đã ai trong thành Ngụy Châu biết tin này chưa?”
“Chưa, chưa biết…”
Tôn Diệp Đình trông thấy bộ dạng sợ rúm người của nội thị mà lòng trầm xuống. Đúng lúc này, Vương Am cũng xông thẳng vào phòng, sắc mặt nghiêm túc không còn vẻ tươi cười thân thiện ngày thường.
Không chờ Vương Am mở miệng, Tôn Diệp Đình nghiêm nghị nói: “Vương đại nhân, người này giả truyền thánh chỉ làm dao động quân tâm, phải chém không thương tiếc. Người đâu, trói hắn lại!”
Vương Am chỉ khựng lại một chút rồi phản ứng cực nhanh, quay sang gật đầu ra hiệu cho thuộc quan, lập tức có binh sĩ từ ngoài xông vào trói gô nội thị và đám tùy tùng lại, còn dùng giẻ rách nhét kín miệng trước khi bọn họ kịp hô hoán.
Tôn Diệp Đình nói: “Kéo ra ngoài.”
“Khoan đã,” Vương Am hùng hồn nói, “Người này tội ác tày trời, không bị bêu đầu thị chúng chắc chắn không đủ trấn an quân dân!”
Tôn Diệp Đình không khỏi liếc ông ta một cái đầy sâu xa, Vương Am quả là người thông minh, chẳng trách có thể lăn lộn đến tận bây giờ. Tin tức đã lan truyền, chỉ âm thầm giết người thì không đủ để chấn hưng sĩ khí, phải xử quyết thích đáng mới có thể diệt trừ hậu họa. Tôn Diệp Đình nhanh chóng quyết định cướp lấy thánh chỉ dí vào ngọn lửa, đoạn ném luôn vào chậu than.
Gã quan nội thị không thể nói, chỉ có thể trừng to mắt như sắp rơi cả con ngươi ra ngoài vì không ngờ Tôn Diệp Đình dám đốt thánh chỉ.
Sau khi cho lui hết mọi người, trong phòng chỉ còn mỗi Tôn Diệp Đình và Vương Am. Tôn Diệp Đình nói: “Người quang minh chính đại không nói chuyện mờ ám. Viện binh chưa đến, muốn bảo vệ Ngụy Châu thì sĩ khí là quan trọng nhất. Ta có thể phỏng theo bút tích của Thánh nhân viết một tờ thánh chỉ khác, ủng hộ sĩ khí.”
Vương Am nghe xong lập tức xuýt xoa một tiếng. Giả truyền khẩu dụ có thể biện hộ là quân tình khẩn cấp, chỉ làm việc theo thẩm quyền, còn giả bút tích của thiên tử thì phải nói là bụng dạ khó lường. Việc này qua đi, nếu Vương Am muốn dâng tấu tố giác Tôn Diệp Đình thì chỉ mỗi việc này thôi cũng đủ để hắn ta chết mười tám lần không hết tội.
Tôn Diệp Đình biết ông ta suy nghĩ gì nên nói thẳng: “Nếu không giữ được Ngụy Châu thì nước còn không ra nước, nói gì đến những việc khác.”
Dứt lời, Tôn Diệp Đình nhìn quanh rồi xé một miếng lụa xuống, suy tư một lát lập tức đề bút ngay. Chữ hắn ta phỏng theo không giống thiên tử mười phần thì cũng giống bảy, từ xa nhìn lại, ngoại trừ bản thân Hoàng đế ra có lẽ sẽ không ai phân biệt được. Viết xong, hắn ta lại đổi bút chấm vào mực đỏ, nín thở tập trung phác họa ra tỉ ấn của Hoàng đế, nhìn qua không khác gì một phong mật chiếu thật.
Vương Am luôn đứng khoanh tay không nói lời nào, không lại gần xem xét cũng không tiếp chỉ, chỉ cụp mắt, mắt nhìn mũi mũi nhìn tim, nói: “Ta đi triệu tập tướng sĩ.”
Tôn Diệp Đình không chọn nơi tuyên cáo trên thành lâu mà ở ngay pháp trường thường ngày dùng để xử quyết phạm nhân. Trong ngoài vây đầy bá tánh, quân lính không tập trung một chỗ mà phân ra bốn phía cảnh giới, quan nội thị và tùy tùng bị trói ngay chính giữa.
Tôn Diệp Đình mặc áo giáp đứng trên đài, cao giọng tuyên cáo tờ thánh chỉ giả mà hắn ta vừa viết xong ——
“Tướng sĩ hiến công vệ quốc, toàn lấy một đương trăm. Bá tánh Ngụy Châu là con dân trẫm, cùng vui buồn với vận mệnh quốc gia. Nay quân Địch xâm phạm Đại Lương, sao trẫm có thể ngồi yên…”
Bá tánh quân sĩ nghe câu hiểu câu không nhưng ai nấy đều kích động, thậm chí có người còn quỳ xuống hô to ba lần vạn tuế.
Đọc thánh chỉ xong, Tôn Diệp Đình rút bảo kiếm được ngự tứ ra, cả giận nói: “Người này giả truyền thánh chỉ, nhiễu loạn quân tâm, tội phải chém!”
Tay hắn cầm bảo kiếm vung mạnh, đao phủ vâng lệnh đồng thời nâng đao, đầu quan nội thị lập tức rơi lộc cộc xuống đất, máu bắn xa ba thước.
Tôn Diệp Đình hô to: “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào!”
Chúng tướng sĩ giơ cao bội đao hô vang rung trời, ánh nắng chiếu vào áo giáp và binh khí chói lòa. Bá tánh quỳ phục hô to, nhất thời sĩ khí tăng vọt, dân tâm quy thuận.
Tôn Diệp Đình tra kiếm vào vỏ nhìn về phía Vương Am, hai người trao đổi ánh mắt rồi âm thầm thở phào nhẹ nhõm.
Dưới chân núi Hồng Đào, bên ngoài cổng trại phỉ.
Tạ Yến Hồng cưỡi Tiểu Ô, một lần nữa đeo lên thanh loan đao mà Ô Lan tặng, Trường Ninh cưỡi con ngựa đen bốn vó đạp tuyết ngẩng đầu nhìn về phương đông. Nhan Trừng ra tiễn tận cửa, Tạ Yến Hồng nói: “Về đi, ta chỉ đi xem tình hình một chút, nếu muốn làm gì nhất định sẽ quay về thương lượng với ngươi.”
Nhan Trừng đeo mặt nạ nhìn không thấy sắc mặt, chỉ khẽ gật đầu. Tạ Yến Hồng và Trường Ninh một trước một sau giục ngựa đi về hướng đông.
Tin tức quân Địch từng bước đông xâm truyền đến như hòn đá ném xuống dậy sóng cả mặt hồ. Tâm tình Nhan Trừng cực kỳ phức tạp, mẫu thân hắn, Kính Dương trưởng công chúa còn ở kinh thành, mà hắn thì tiến thoái lưỡng nan. Tạ Yến Hồng cũng trăm mối ngổn ngang không kém, mấy ngày gần đây, y nhìn đôi khuyên tai hồng ngọc đặt trên bàn, ngoại trừ thấp thỏm bất an ra còn không khỏi nhớ tới Đan Mộc.
Lúc ấy y đã son sắt hứa hẹn rằng sẽ đưa nàng rời đi.
Hiện giờ quân Địch tiến sâu về hướng đông, Sóc Châu chỉ là một ngôi thành nhỏ, Hộc Luật Hằng Già chắc chắn không cam tâm chôn chân ở nơi đó, nói không chừng y sẽ có cơ hội cứu Đan Mộc ra. Tạ Yến Hồng không có manh mối gì, cũng không biết tình hình chiến sự hiện giờ ra sao nên quyết định đi một vòng thăm dò thử xem.
Tạ Yến Hồng ruổi ngựa đi phía trước, Trường Ninh theo sát phía sau. Hai người đi dọc đường núi, cẩn thận chọn những chỗ cao mà đi nên chẳng mấy chốc đã nhìn thấy thành Sóc Châu ở xa xa, trước cổng thành có một hàng ngựa xe uốn lượn nhỏ như đàn kiến.
“Là lương thảo,” Tạ Yến Hồng ngắt lời, “Ít ngày nữa tất có đại chiến.”
Hai người nhìn chăm chú một hồi lâu, thấy đội ngũ kia dài như không có điểm cuối liền biết Sóc Châu nhất định là binh nhiều lương đủ, nhất thời không biết nên làm thế nào. Tạ Yến Hồng nghĩ mãi, cuối cùng dứt khoát nói: “Vòng qua Tử Kinh Quan nhìn xem.”
Y còn nhớ rõ phó tướng Tần Hàn Châu ở Tử Kinh Quan.
Tử Kinh Quan và Cư Dung Quan chiếu ứng lẫn nhau, môi hở răng lạnh, Cư Dung Quan đã bị chiếm đóng, nói vậy Tử Kinh Quan có lẽ cũng thất thủ rồi.
Hai người tránh đi qua bình nguyên rộng lớn ngay trước thành Sóc Châu mà tiếp tục đi dọc đường núi, vừa đi vừa dừng khoảng hai ngày thì Tử Kinh Quan đã ở ngay trước mắt. Dọc đường hai người bắt gặp không ít binh đao áo giáp bị vứt bỏ, có cả thi thể của binh lính người Hán lẫn người Địch.
Ban đầu Tạ Yến Hồng còn định giúp họ chôn cất, nhưng về sau số lượng quá nhiều, có cố cũng làm không xuể.
Lại đi về phía trước một chút liền trông thấy một con chiến mã đang chậm rãi đi dọc chân núi, trên lưng còn chở một người có vẻ đã mất ý thức, thân hình lắc lư qua cứ lại như chực chờ ngã xuống đất.
—
Lời tác giả:
Xin lỗi đã để mọi người đợi lâu, tuần này tăng ca quá độc ác, hôm kinh dị nhất phải ở lại đến 5 giờ sáng, muốn điên luôn.
—
Nhan đề và hai câu thơ “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào” mà Tôn Diệp Đình đọc trong chương này lấy từ bài kinh thi Vô Y (1) của Khổng Tử để khích lệ sĩ khí quân dân, nguyên văn như sau:
Khởi viết vô y?
Dữ tử đồng bào!
Vương vu hưng sư,
Tu ngã qua mâu.
Dữ tử đồng cừu.
Bản dịch thơ của Lương Trọng Nhàn trên thivien.net:
Áo quần anh thiếu để dùng?
Thì cùng anh mặc cùng chung áo gòn!
Dấy binh thiên tử lệnh còn,
Giáo mâu sửa soạn đồng lòng xông pha.
Tôi cùng anh đánh thù nhà.
Chúng ta cùng tiến nhanh ra sa trường.
Đôi khi Tạ Yến Hồng sẽ cùng Nhan Trừng cưỡi ngựa ra ngoài giống như hồi còn nhỏ cả hai cùng cưỡi ngựa ra ngoại thành đạp thanh, chỉ là bây giờ Nhan Trừng luôn mang tâm trạng thất thần suy nghĩ. Tạ Yến Hồng hỏi, hắn lại ấp úng không nói nên lời. Phần lớn thời gian còn lại Tạ Yến Hồng chỉ cùng Trường Ninh ở chung một chỗ, mặc dù không làm gì vẫn cảm thấy cực kỳ thoải mái.
Tạ Yến Hồng vẫn duy trì thói quen luyện kiếm mỗi ngày, ở đây y không cần bẻ nhánh cây khô nữa mà được chọn một thanh trường kiếm đứng múa trên khoảng đất trống trước cửa phòng. Trường Ninh ngồi một bên chà lau trường đao, thỉnh thoảng ngẩng đầu lên liếc nhìn một cái.
Ra một thân mồ hôi y mới thở hổn hển thu kiếm, nhìn Trường Ninh hỏi: “Thế nào?”
Trong tay Trường Ninh nắm một miếng vải mềm tỉ mỉ chà lau lưỡi kiếm, miệng nói: “Tốt lắm.”
“Tốt mới lạ ấy,” Tạ Yến Hồng nói, “Chắc chắn ngươi đang cảm thấy ta khoa tay múa chân, không đủ xem.”
“Không có.” Trường Ninh ôn hòa tiếp lời, hắn lau khô đao xong thì dùng mảnh vải sạch cẩn thận bọc lưỡi đao lại. Tạ Yến Hồng tò mò lại gần thử dùng hai tay nắm chuôi đao, hít sâu một hơi nâng lên, thanh đao chỉ hơi nhấc lên một chút rồi rơi mạnh xuống đất.
Trường Ninh liền vòng ra sau Tạ Yến Hồng duỗi tay vòng quanh y, hai tay nắm bàn tay y cùng thi lực, trường đao vung lên kéo thành một vạt trăng tròn, lúc hạ xuống mặt đất làm tung một lớp bụi mù, mặc dù lưỡi đao được bọc kín nhưng vẫn có uy lực ngàn quân.
Bụi bặm còn chưa bay hết thì chợt có người vội vàng xông tới, vừa thở vừa nói: “Nhan, Nhan đại ca… Nhan đại ca gọi ngài qua một chuyến…”
Tạ Yến Hồng vội hỏi: “Có chuyện gì?”
Tùy tùng Nhị Cẩu Tử của Nhan Trừng lắp bắp không nói nên lời, cuối cùng giải quyết dứt khoát: “Gấp, việc gấp!”
Tạ Yến Hồng vội kéo theo Trường Ninh cùng đi theo Nhị Cẩu Tử, dọc đường đi y gặp rất nhiều người to nhỏ thảo luận, còn mơ hồ nghe thấy mấy chữ “Cư Dung”, “quân Địch”. Lòng Tạ Yến Hồng lo sợ bất an liền quay đầu lại liếc nhìn Trường Ninh, hắn cũng nhíu mày như đang suy tư gì, thấy y nhìn mình liền cầm tay y trấn an.
Ngoài sảnh chính, Nhan Trừng ngồi trên cao, chân đạp đầu sói, mặt mày nghiêm túc. Lục Thiếu Vi ở bên cạnh tiều tụy như bệnh nặng vừa khỏi, cũng không có tinh thần gì mà ngồi nghiêng hẳn sang một bên ghế.
“Chuyện gì thế?” Tạ Yến Hồng vội vàng hỏi.
Nhan Trừng trầm giọng: “Đêm qua quân Địch xông thẳng qua Cư Dung Quan, tiến về Ngụy Châu rồi.”
Trong thành Ngụy Châu, cửa thành đóng chặt, toàn thành giới nghiêm. Trên thành lâu đầy rẫy binh lính, lương thảo và binh khí không ngừng được vận chuyển ra vào. Mặt ngoài mọi thứ trông rất gọn gàng ngăn nắp, nhưng nhìn kỹ bên trong mới thấy dù là sĩ tốt hay bá tánh đều lo sợ không yên.
Quân Địch di chuyển quá nhanh, vừa vào xuân là bắt đầu đông tiến hạ thành Sóc Châu, Đại Đồng, Cư Dung khổ chiến một trận vẫn phải hạ cờ đầu hàng. Ngụy Châu không dễ phòng thủ, phóng nhãn nhìn quanh chỉ toàn đất bằng trống trải, cực kỳ thích hợp tấn công bằng kỵ binh. Toàn bộ quân lương cần thiết đều đang chạy đua với thế tiến của quân Địch xuất quỷ nhập thần, không chừng người sau còn đến sớm hơn, ai nghe mà không sợ?
Vương Am có tuổi rồi, tóc đã bắt đầu điểm bạc mà hiện giờ đang ngày đêm sầu não, đi ngủ cũng không dám cởi áo giáp vì sợ quân Địch tấn công bất ngờ, khuôn mặt đẫy đà càng ngày càng nhọn hoắt. Hôm nay ông ta đang ngồi trên ghế bành ngủ gà ngủ gật, mới vừa chợp mắt đã bị thuộc quan xông vào đánh thức.
“Đại nhân! Không xong rồi!”
Vương Am giật mình tỉnh lại, trái tim hẫng một phách, vội vàng hỏi: “Sao lại không xong? Quân Địch tới à?”
“Không phải không phải!” Thuộc quan đáp.
Vương Am thở phào, lại bực tức cao giọng: “Nói nhanh lên! Đừng dông dài nữa!”
Thuộc quan nhìn quanh trái phải, tùy tùng trong phòng biết ý liền lui ra ngoài, lúc này hắn mới thì thầm nói nhỏ: “Có tin đồn Thánh nhân muốn dời đô!”
Vương Am chưa thở xong một hơi lại muốn ngừng thở, suýt nữa thì ngất xỉu tại chỗ. Ngụy Châu là đạo phòng tuyến cuối cùng bảo vệ kinh thành, nếu Ngụy Châu thất thủ, quân Địch chỉ cần vượt qua Hoàng Hà là Đại Lương xem như xong đời. Lúc này đây tuy trong lòng sĩ tốt sợ hãi nhưng dẫu sao vẫn còn chút nghị lực chống chọi, ai nấy đều mang trong mình trách nhiệm gánh vác tồn vong của đất nước. Thế nhưng nếu dời đô thật, kinh sư không cần bảo vệ nữa, vậy thì sĩ khí nhất định sẽ tuột dốc không phanh, không chiến tự bại.
“Tin tức ở đâu ra!” Vương Am lạnh giọng quát, “Mau chém kẻ đó!”
Thấy thuộc quan ấp úng mãi, Vương Am vỗ mạnh bàn làm mặt bàn suýt thì nứt đôi, bấy giờ hắn mới khó xử đáp: “Là quý nhân trong kinh tới…”
Vẫn là vị quan nội thị lần trước, khi đó là đầu xuân, người nọ truyền thánh chỉ của Thánh nhân phong Tôn Diệp Đình làm đốc quân Tây Bắc. Nội thị đi đường thủy dọc theo kênh đào hồi kinh, mông còn chưa kịp ngồi ấm lại lật đật mang theo một thánh chỉ khác về Ngụy Châu.
Lúc này, ý của Thánh nhân là muốn triệu Tôn Diệp Đình trở về.
Kẻ thù không biết bao giờ sẽ đánh tới, vị nội quan kia cũng không còn tư thái nhàn nhã lúc đầu, chỉ muốn mau mau đưa thánh chỉ rồi đi theo Tôn Diệp Đình hồi kinh sư.
“Các đại nhân trên triều đều ồn ào khuyên dời đô, Thánh nhân còn chưa quyết định nhưng rất nhiều thân hào phú hộ đã lục tục thu xếp hành lý rồi, chiếu vừa ban một cái là gồng gánh kéo nhau đi cả thôi,” Hắn nhỏ giọng kể, “Thánh nhân nể trọng đại nhân nên mới triệu về, đại nhân mau khởi hành hồi kinh đi.”
Tôn Diệp Đình đang bận như con quay để thúc giục viện binh và lương thảo, điều phối vũ khí, vốn không có bao nhiêu kiên nhẫn đi ngọt nhạt với vị quý nhân này. Nghe người kia nói xong, hắn ta giận đến nghẹn khí, phải mất một lúc lâu cho bình tĩnh xuống mới hỏi: “Dời đô? Điên hết rồi sao?”
Quan nội thị rụt cổ không dám nói lời nào, Tôn Diệp Đình vỗ bàn đứng lên truy vấn: “Đã ai trong thành Ngụy Châu biết tin này chưa?”
“Chưa, chưa biết…”
Tôn Diệp Đình trông thấy bộ dạng sợ rúm người của nội thị mà lòng trầm xuống. Đúng lúc này, Vương Am cũng xông thẳng vào phòng, sắc mặt nghiêm túc không còn vẻ tươi cười thân thiện ngày thường.
Không chờ Vương Am mở miệng, Tôn Diệp Đình nghiêm nghị nói: “Vương đại nhân, người này giả truyền thánh chỉ làm dao động quân tâm, phải chém không thương tiếc. Người đâu, trói hắn lại!”
Vương Am chỉ khựng lại một chút rồi phản ứng cực nhanh, quay sang gật đầu ra hiệu cho thuộc quan, lập tức có binh sĩ từ ngoài xông vào trói gô nội thị và đám tùy tùng lại, còn dùng giẻ rách nhét kín miệng trước khi bọn họ kịp hô hoán.
Tôn Diệp Đình nói: “Kéo ra ngoài.”
“Khoan đã,” Vương Am hùng hồn nói, “Người này tội ác tày trời, không bị bêu đầu thị chúng chắc chắn không đủ trấn an quân dân!”
Tôn Diệp Đình không khỏi liếc ông ta một cái đầy sâu xa, Vương Am quả là người thông minh, chẳng trách có thể lăn lộn đến tận bây giờ. Tin tức đã lan truyền, chỉ âm thầm giết người thì không đủ để chấn hưng sĩ khí, phải xử quyết thích đáng mới có thể diệt trừ hậu họa. Tôn Diệp Đình nhanh chóng quyết định cướp lấy thánh chỉ dí vào ngọn lửa, đoạn ném luôn vào chậu than.
Gã quan nội thị không thể nói, chỉ có thể trừng to mắt như sắp rơi cả con ngươi ra ngoài vì không ngờ Tôn Diệp Đình dám đốt thánh chỉ.
Sau khi cho lui hết mọi người, trong phòng chỉ còn mỗi Tôn Diệp Đình và Vương Am. Tôn Diệp Đình nói: “Người quang minh chính đại không nói chuyện mờ ám. Viện binh chưa đến, muốn bảo vệ Ngụy Châu thì sĩ khí là quan trọng nhất. Ta có thể phỏng theo bút tích của Thánh nhân viết một tờ thánh chỉ khác, ủng hộ sĩ khí.”
Vương Am nghe xong lập tức xuýt xoa một tiếng. Giả truyền khẩu dụ có thể biện hộ là quân tình khẩn cấp, chỉ làm việc theo thẩm quyền, còn giả bút tích của thiên tử thì phải nói là bụng dạ khó lường. Việc này qua đi, nếu Vương Am muốn dâng tấu tố giác Tôn Diệp Đình thì chỉ mỗi việc này thôi cũng đủ để hắn ta chết mười tám lần không hết tội.
Tôn Diệp Đình biết ông ta suy nghĩ gì nên nói thẳng: “Nếu không giữ được Ngụy Châu thì nước còn không ra nước, nói gì đến những việc khác.”
Dứt lời, Tôn Diệp Đình nhìn quanh rồi xé một miếng lụa xuống, suy tư một lát lập tức đề bút ngay. Chữ hắn ta phỏng theo không giống thiên tử mười phần thì cũng giống bảy, từ xa nhìn lại, ngoại trừ bản thân Hoàng đế ra có lẽ sẽ không ai phân biệt được. Viết xong, hắn ta lại đổi bút chấm vào mực đỏ, nín thở tập trung phác họa ra tỉ ấn của Hoàng đế, nhìn qua không khác gì một phong mật chiếu thật.
Vương Am luôn đứng khoanh tay không nói lời nào, không lại gần xem xét cũng không tiếp chỉ, chỉ cụp mắt, mắt nhìn mũi mũi nhìn tim, nói: “Ta đi triệu tập tướng sĩ.”
Tôn Diệp Đình không chọn nơi tuyên cáo trên thành lâu mà ở ngay pháp trường thường ngày dùng để xử quyết phạm nhân. Trong ngoài vây đầy bá tánh, quân lính không tập trung một chỗ mà phân ra bốn phía cảnh giới, quan nội thị và tùy tùng bị trói ngay chính giữa.
Tôn Diệp Đình mặc áo giáp đứng trên đài, cao giọng tuyên cáo tờ thánh chỉ giả mà hắn ta vừa viết xong ——
“Tướng sĩ hiến công vệ quốc, toàn lấy một đương trăm. Bá tánh Ngụy Châu là con dân trẫm, cùng vui buồn với vận mệnh quốc gia. Nay quân Địch xâm phạm Đại Lương, sao trẫm có thể ngồi yên…”
Bá tánh quân sĩ nghe câu hiểu câu không nhưng ai nấy đều kích động, thậm chí có người còn quỳ xuống hô to ba lần vạn tuế.
Đọc thánh chỉ xong, Tôn Diệp Đình rút bảo kiếm được ngự tứ ra, cả giận nói: “Người này giả truyền thánh chỉ, nhiễu loạn quân tâm, tội phải chém!”
Tay hắn cầm bảo kiếm vung mạnh, đao phủ vâng lệnh đồng thời nâng đao, đầu quan nội thị lập tức rơi lộc cộc xuống đất, máu bắn xa ba thước.
Tôn Diệp Đình hô to: “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào!”
Chúng tướng sĩ giơ cao bội đao hô vang rung trời, ánh nắng chiếu vào áo giáp và binh khí chói lòa. Bá tánh quỳ phục hô to, nhất thời sĩ khí tăng vọt, dân tâm quy thuận.
Tôn Diệp Đình tra kiếm vào vỏ nhìn về phía Vương Am, hai người trao đổi ánh mắt rồi âm thầm thở phào nhẹ nhõm.
Dưới chân núi Hồng Đào, bên ngoài cổng trại phỉ.
Tạ Yến Hồng cưỡi Tiểu Ô, một lần nữa đeo lên thanh loan đao mà Ô Lan tặng, Trường Ninh cưỡi con ngựa đen bốn vó đạp tuyết ngẩng đầu nhìn về phương đông. Nhan Trừng ra tiễn tận cửa, Tạ Yến Hồng nói: “Về đi, ta chỉ đi xem tình hình một chút, nếu muốn làm gì nhất định sẽ quay về thương lượng với ngươi.”
Nhan Trừng đeo mặt nạ nhìn không thấy sắc mặt, chỉ khẽ gật đầu. Tạ Yến Hồng và Trường Ninh một trước một sau giục ngựa đi về hướng đông.
Tin tức quân Địch từng bước đông xâm truyền đến như hòn đá ném xuống dậy sóng cả mặt hồ. Tâm tình Nhan Trừng cực kỳ phức tạp, mẫu thân hắn, Kính Dương trưởng công chúa còn ở kinh thành, mà hắn thì tiến thoái lưỡng nan. Tạ Yến Hồng cũng trăm mối ngổn ngang không kém, mấy ngày gần đây, y nhìn đôi khuyên tai hồng ngọc đặt trên bàn, ngoại trừ thấp thỏm bất an ra còn không khỏi nhớ tới Đan Mộc.
Lúc ấy y đã son sắt hứa hẹn rằng sẽ đưa nàng rời đi.
Hiện giờ quân Địch tiến sâu về hướng đông, Sóc Châu chỉ là một ngôi thành nhỏ, Hộc Luật Hằng Già chắc chắn không cam tâm chôn chân ở nơi đó, nói không chừng y sẽ có cơ hội cứu Đan Mộc ra. Tạ Yến Hồng không có manh mối gì, cũng không biết tình hình chiến sự hiện giờ ra sao nên quyết định đi một vòng thăm dò thử xem.
Tạ Yến Hồng ruổi ngựa đi phía trước, Trường Ninh theo sát phía sau. Hai người đi dọc đường núi, cẩn thận chọn những chỗ cao mà đi nên chẳng mấy chốc đã nhìn thấy thành Sóc Châu ở xa xa, trước cổng thành có một hàng ngựa xe uốn lượn nhỏ như đàn kiến.
“Là lương thảo,” Tạ Yến Hồng ngắt lời, “Ít ngày nữa tất có đại chiến.”
Hai người nhìn chăm chú một hồi lâu, thấy đội ngũ kia dài như không có điểm cuối liền biết Sóc Châu nhất định là binh nhiều lương đủ, nhất thời không biết nên làm thế nào. Tạ Yến Hồng nghĩ mãi, cuối cùng dứt khoát nói: “Vòng qua Tử Kinh Quan nhìn xem.”
Y còn nhớ rõ phó tướng Tần Hàn Châu ở Tử Kinh Quan.
Tử Kinh Quan và Cư Dung Quan chiếu ứng lẫn nhau, môi hở răng lạnh, Cư Dung Quan đã bị chiếm đóng, nói vậy Tử Kinh Quan có lẽ cũng thất thủ rồi.
Hai người tránh đi qua bình nguyên rộng lớn ngay trước thành Sóc Châu mà tiếp tục đi dọc đường núi, vừa đi vừa dừng khoảng hai ngày thì Tử Kinh Quan đã ở ngay trước mắt. Dọc đường hai người bắt gặp không ít binh đao áo giáp bị vứt bỏ, có cả thi thể của binh lính người Hán lẫn người Địch.
Ban đầu Tạ Yến Hồng còn định giúp họ chôn cất, nhưng về sau số lượng quá nhiều, có cố cũng làm không xuể.
Lại đi về phía trước một chút liền trông thấy một con chiến mã đang chậm rãi đi dọc chân núi, trên lưng còn chở một người có vẻ đã mất ý thức, thân hình lắc lư qua cứ lại như chực chờ ngã xuống đất.
—
Lời tác giả:
Xin lỗi đã để mọi người đợi lâu, tuần này tăng ca quá độc ác, hôm kinh dị nhất phải ở lại đến 5 giờ sáng, muốn điên luôn.
—
Nhan đề và hai câu thơ “Khởi viết vô y, dữ tử đồng bào” mà Tôn Diệp Đình đọc trong chương này lấy từ bài kinh thi Vô Y (1) của Khổng Tử để khích lệ sĩ khí quân dân, nguyên văn như sau:
Khởi viết vô y?
Dữ tử đồng bào!
Vương vu hưng sư,
Tu ngã qua mâu.
Dữ tử đồng cừu.
Bản dịch thơ của Lương Trọng Nhàn trên thivien.net:
Áo quần anh thiếu để dùng?
Thì cùng anh mặc cùng chung áo gòn!
Dấy binh thiên tử lệnh còn,
Giáo mâu sửa soạn đồng lòng xông pha.
Tôi cùng anh đánh thù nhà.
Chúng ta cùng tiến nhanh ra sa trường.