Phi Hoàng Dẫn - Tử Vi Lưu Niên
Chương 87: Lễ Vu Lan
Sau vụ ám sát quan viên rúng động nhiều ngày, ánh mắt mọi người nhìn Lục Cửu lang đã hoàn toàn thay đổi. Hắn đã gặp biết bao nguy hiểm mà vẫn có thể bình an vô sự, vẫn được Thiên tử ưu ái, quả là bản lĩnh khiến ai ai cũng phải ngả mũ.
Cùng lúc ấy, một sự kiện nóng hổi khác là Hàn Chiêu Văn lần nữa dâng biểu lên triều đình, song không phải để xin kế nhiệm chức Tiết độ sứ mà là Hà Tây nguyện xuất binh đánh trận, phá vỡ chướng ngại giữa Tây Bắc và Trung Nguyên, giải tỏa khúc mắc lẫn khát vọng đã kéo dài nhiều năm của vương triều.
Dẫu đang đứng giữa cơn phong ba, nhà họ Hàn vẫn chẳng màng vinh hoa trước mắt, sẵn lòng chiến đấu vì đại cục trăm năm của triều đình, đủ thấy tấm lòng trung trinh son sắc nhường nào. Thiên tử cảm động, hoan hỉ ngự phê biểu sớ, tán dương nhà họ Hàn không ngớt, lập tức ban chiếu thư cho Hàn Bình Sách tiếp nhận chức Hà Tây Tiết độ sứ, nắm giữ mười một châu; Hàn Chiêu Văn được phong làm Kim Ngô Vệ đại tướng quân, chính tam phẩm, được ban áo vóc tím, cho phép lưu trú tại Trường An; Hàn Minh Tranh được phong làm Tuyên Uy tướng quân, hàng tứ phẩm, ban áo vóc đỏ cùng thắt lưng vàng đính mười một khóa.
Chiếu thư ban xuống, khách khứa liên tục tới chúc mừng nhà họ Hàn, ngựa xe tấp nập, lại còn đúng dịp lễ Vu Lan, không khí vui mừng bao trùm trong ngoài phủ.
Trời thu trong vắt êm đềm, đêm Nguyên Tiêu yên bình, trăng rằm tháng Bảy rạng ngời soi tỏ, trong cung lẫn dân gian rộn ràng sẻ chung niềm hân hoan.
Nghi thức hoàng gia rất hoa lệ trang trọng, Hoàng đế thân dẫn bá quan xuất cung từ Quang Thuận Môn, đến chùa Pháp Môn tổ chức điển lễ thỉnh tiên; cung nữ và thái giám mặc đạo bào, vừa đi vừa cầu nguyện, rộn ràng ca múa; cung nhân khiêng tượng Phật và lễ vật theo sau, dân chúng Trường An nô nức kháo nhau xem, như được chứng kiến thần tiên hạ phàm.
Người đến chùa chiền và đạo quán đông như kiến, tín đồ thi nhau bày lễ vật phong phú, còn mời ca cơ nhạc kỹ đến hiến vũ trước Phật. Bên hồ Khúc Giang lại càng náo nhiệt hơn, cung điện quanh hồ đèn đuốc rực rỡ, là nơi yến tiệc của hoàng thân quốc thích; thế gia danh sĩ tụ hội tại tửu tạ ngoài rìa, bình dân bá tính tản bộ ven hồ ngắm trăng, ca cơ đứng trên đài nước trình diễn khúc hát, đèn hoa đăng dưới tà váy lung linh, khắp chốn rộn rã niềm vui ngày hội, người người du ngoạn đến lúc bình minh lên.
Trong một nhã gian bên bờ hồ, Tôn Khuê cùng nhóm bạn đang vây quanh mỹ nhân chè chén vui đùa, không quên mời Tư Trạm tham gia. Dẫu sao nhà họ Hàn cũng đang được ân sủng còn cậu nhóc này lại ngây thơ, kết giao một chút cũng chẳng hại gì.
Đám công tử ăn chơi đâu biết điểm dừng, nào là bắt mỹ nhân mớm rượu, chơi xúc xắc cởi áo, càng lúc càng dâm loàng khiến Tư Trạm nhìn đến tròn mắt, lòng bất an, nhấp nhổm muốn đi nhưng lại sợ bị trêu chọc.
Thấy bộ dạng cứng ngắc của cậu, Tôn Khuê cười ha hả, mở một chiếc hộp dẹt ra, để lộ mấy viên hồng hoàn, “Ăn một viên đi, thứ này hay lắm, ngây ngất như tiên.”
Tư Trạm không rõ đó là thứ gì, còn đang ngần ngại thì đám công tử đã thi nhau nuốt vào, kẻ chế nhạo cậu là đồ bó cẩn, người lại cười cậu nhà quê chốn biên thuỳ, bọn chúng khích động khiến cậu không nhịn nổi, đang định với tay cầm lấy thì cửa phòng bật mở, Lục Cửu lang bước vào.
Lục Cửu lang ấn lên nắp hộp, cười cợt nói, “Ta đi ngang qua nghe thấy Tôn huynh có món hay, chi bằng để ta hưởng thụ thay thằng nhóc nhà quê này.”
Đám công tử cười ầm lên, Tư Trạm từng bị Lục Cửu lang gây khó dễ nhiều lần cũng nổi giận, bực tức đưa tay giành lấy.
Lục Cửu lang thong thả gạt tay đối phương, chỉ vung tay một cái đã hất cậu ngã ra cửa, “Muốn chơi với ta ư, cậu còn non lắm, về nghỉ ngơi đi!”
Tư Trạm không ngờ đối phương vô lễ đến thế, vừa giận vừa kinh ngạc, nhưng Lục Cửu lang đã quay vào phòng, mặc cậu đứng ngoài đập gọi thế nào, bên trong vẫn cứ cười nói vui đùa, chẳng một ai ra khuyên.
Tư Trạm đứng sững một hồi, cảm thấy mình không hợp với hội này, bực bội quay người bỏ đi.
Đám người trong phòng đã bắt đầu bị dược lực tác động, dần trở nên dâm loạn. Kẻ thì cởi áo múa may, người thì quằn quại như sâu, kẻ lại ôm lấy kỹ nữ phóng túng đồi truỵ, còn Lục Cửu lang dẫu có mỹ nhân trong lòng nhưng chỉ uống rượu, thản nhiên gạt tay hoa nương toan luồn vào vạt áo.
Cái gạt tay không nhẹ làm hoa nương đau đến đỏ mắt, lệ ngấn tròng, Lục Cửu lang nâng cằm nàng ta lên, dỗ ngọt đôi câu làm nàng tan hết giận hờn.
Tôn Khuê đã cởi gần hết áo quần, thấy vậy bèn trêu, “Nghe nói lúc ngươi hành sự không chịu cởi đồ, chỉ thích tắt đèn rồi nhảy bổ vào, sao thế, trên người có sẹo hả?”
Lục Cửu lang chẳng chối, “Lâm trận bị thương, không muốn bị người ta cười nhạo, hơn nữa tắt đèn sẽ càng kích thích hơn.”
Tôn Khuê định trêu tiếp thì bất thình lình cửa phòng bị đạp mạnh mở toang.
Tưởng Hiên mắt đỏ ngầu xông vào, mặt mày u ám, “Ta có chuyện gấp cần bàn riêng với Tôn đại nhân, mời các vị ra ngoài cho!”
Đám công tử chẳng hiểu đầu đuôi, Tôn Khuê nổi giận, “Họ Tưởng kia, đừng có vô cớ phá hỏng hứng thú của ông, cút ngay!”
Tưởng Hiên đã nhẫn nhịn nhiều ngày, binh khí mà quân U Châu mượn đến giờ vẫn chưa thấy trả về, cấp trên thúc giục mấy lần, trung gian lại cứ lẩn tránh, cuối cùng mất luôn dấu vết. Gã bị đẩy đến đường cùng, hạ quyết tâm phải tới đòi lại bằng được, nay thấy Tôn Khuê thản nhiên như không, lửa giận càng bốc lên dữ dội, “Tôn đại nhân không sợ sự việc bại lộ, vậy ta sẽ nói toạc hết với mọi người, đến lúc đó đừng hối hận!”
Một câu bất chấp của gã khiến Tôn Khuê ngạc nhiên. Hắn ỷ có thế lực của cha nuôi làm không ít chuyện bậy bạ, không rõ đối phương nắm được chuyện gì, lòng chột dạ nhưng không muốn mất mặt, khiến bầu không khí trở nên căng thẳng.
Lục Cửu lang rất tinh ý, cười ha hả giải vây, “Được rồi, chúng ta qua gian phòng khác chơi nào, bên kia có mấy huynh đệ bằng hữu của ta, không làm phiền hai vị đại nhân bàn việc lớn nữa.”
Hắn dẫn đám công tử sang gian phòng của hội Cao Tuý, hai bên đều là công tử ăn chơi, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, lại một hồi vui vẻ sa đoạ.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Tưởng Hiên đóng chặt cửa, gằn giọng rít lên, “Tôn Khuê, ngươi tưởng kiếm lời từ vũ khí quân đội dễ lắm sao? Đừng nghĩ chuyện này có thể cho qua!”
Tôn Khuê vừa sợ vừa tức, đúng là gần đây hắn đã bán tháo một lô binh khí giá rẻ, đem nộp phần lớn lợi nhuận cho cha nuôi để đổi lấy đối xử ưu ái, nhưng làm sao Tưởng Hiên biết được chuyện này?
Hắn ỷ thế cha nuôi, lại đang lúc dược tính phát tán, ngông cuồng mắng, “Một tên hèn hạ mà dám tống tiền ta, không biết ai đứng sau lưng ta hả?! Có phải ngươi muốn chết không!”
Tưởng Hiên bây giờ đã rơi vào tình cảnh còn tệ hơn cả nợ nần chồng chất, nếu tra xét đến nơi thì bị lăng trì còn nhẹ, gã gào lên, “Mã An Nam thì sao, ông đây đếch sợ! Ngươi có tin ta kéo ngươi chết chung không!”
Tôn Khuê bị hắn dí sát mặt, phun nước bọt khắp mặt, lập tức nổi giận, vung nắm đấm toan đánh người.
Tưởng Hiên là quan văn, làm sao đấu lại nổi Tôn Khuê. Gã bị đánh đau điếng, vừa tức giận vừa nhục nhã, trông thật thảm hại, may là gã đã chuẩn bị trước, rút từ trong áo ra một con dao, vung vẩy lung tung hòng đe doạ. Tôn Khuê toan tránh đi thì đột nhiên đầu gối mềm nhũn, tự dưng lao thẳng vào mũi dao.
Cả hai bàng hoàng chết sững, Tôn Khuê mất sức, loạng choạng gục xuống, sờ tay lên ngực thấy máu chảy ròng ròng.
Tưởng Hiên run rẩy lùi về phía sau, mặt trắng bệch, biết bản thân đã gây ra đại họa liền vội vàng mở cửa chạy trốn.
Trước ngực Tôn Khuê đau nhói, muốn kêu cứu nhưng không cách nào phát ra âm thanh. Đúng lúc này từ cửa sổ phía sau, Lục Cửu lang nhẹ nhàng nhảy vào, hắn lặng lẽ tiếp cận, đá mạnh một cú làm Tôn Khuê đập đầu xuống đất, lưỡi dao cắm sâu lút cán, ngay lập tức mất mạng.
Ngọn nến bạc trong chiếc chân đèn vẫn cháy bập bùng, ánh sáng hắt lên xác người nằm dưới đất, bên cạnh thi thể lăn lóc một chiếc cốc rượu nhỏ, đáy cốc vẫn còn đọng một ít rượu chưa khô.
***
Tư Trạm hăm hở ra ngoài chơi lại tự dưng bị chuốc nhục, cậu vừa xấu hổ vừa tức giận, ôm một bụng ấm ức, rất muốn tìm ai đó để giãi bày.
Bấy giờ Hàn Chiêu Văn đang bận tiếp đãi các quan lại ở cung điện cạnh hồ Khúc Giang, Hàn Minh Tranh đang đãi tiệc ở thủy tạ bên hồ cùng Thẩm Minh, Tư Trạm quyết định đến gặp Hàn Minh Tranh. Nhưng khi đến nơi, nhìn tướng quân và Thẩm công tử ngắm cảnh dưới trăng, chuyện trò hợp ý, cậu cảm thấy không đúng dịp, đang định lặng lẽ lui ra thì bị Hàn Minh Tranh gọi lại.
Tư Trạm ấp úng kể lại chuyện đã xảy ra, vẻ mặt hậm hực, “Lục tướng quân thật vô lý, hết lần này đến lần khác cố ý làm khó đệ. Đệ đã giúp đỡ thị vệ của hắn, không cảm ơn đã đành, lại còn làm đệ bẽ mặt trước mọi người. Nếu không phải sợ ảnh hưởng tới anh rể, đệ đã muốn tẩn cho hắn một trận!”
Hàn Minh Tranh cụp mắt, không nói lời nào.
Thẩm Minh bị quấy rầy nhưng không tức giận, nhẹ nhàng an ủi, “Lục tướng quân ngang ngược quá, tránh xa là đúng rồi. Còn đám công tử kia xưa nay hành vi càn rỡ, không có tiếng tăm tốt, nếu hùa theo bọn chúng uống thuốc làm chuyện bậy bạ, chẳng thà đi về còn hơn.”
Tư Trạm không hiểu, hỏi lại, “Đó là thuốc gì vậy? Đệ thấy họ tranh nhau uống mà đâu có vẻ bệnh tật.”
Tuy Thẩm Minh không dùng nhưng cũng nghe nói ít nhiều, bèn giải thích, “Thiên tử thích hồng hoàn, lũ công tử ăn chơi cũng đua đòi, chế ra loại thuốc tương tự từ mủ cây anh túc trộn lẫn với thạch nhũ, lưu huỳnh và tử thạch anh, uống vào toàn thân nóng bừng, lâng lâng như tiên, có tác dụng kích thích trợ hứng rất mạnh. Loại thuốc này dễ gây nghiện, hại sức khỏe, dùng quá liều có thể đột tử, người đứng đắn đều tránh xa.”
Tư Trạm giật mình hồi tưởng, hiểu nếu nán lại sẽ gây ra chuyện xấu cỡ nào, cậu đỏ bừng mặt, ngượng ngùng nói, “Là đệ sai rồi, lần trước tướng quân đã khuyên đệ không nên giao du với bọn họ.”
Hàn Minh Tranh không trách cứ mà còn tìm việc cho cậu, nàng gỡ thẻ bài bên eo đưa tới, “Nhị ca sai người nhắn rằng tối nay sẽ ở lại điện không về, đệ cầm thẻ bài này vào trong ở lại với ca ca, đừng để ca ca uống say hại thân.”
Tư Trạm không còn ảo não, thậm chí còn cảm thấy nhẹ nhõm, vui vẻ nhận lấy thẻ bài rồi rời đi.
Thủy tạ chỉ còn lại hai người, gió đêm thổi qua, ánh trăng bàng bạc soi sáng, mặt hồ lung linh phản chiếu hàng ngàn chiếc đèn lồng, khung cảnh giống hệt chốn bồng lai tiên cảnh.
Đêm nay Thẩm Minh đã chỉnh trang kỹ lưỡng, trông càng thêm thanh cao quý phái, phong độ xuất chúng, chàng mỉm cười đưa ra một chiếc hộp gấm, “Nhân dịp lễ có chút quà tặng, mong Hàn tiểu thư không chê.”
Vì Hàn Chiêu Văn đã gửi lễ vật trọng hậu đến Thẩm phủ nên Hàn Minh Tranh không chuẩn bị quà cho Thẩm Minh, trong lòng lấy làm áy náy. Nàng mở hộp gấm ra, bên trong là bộ trâm cài hình phượng bằng vàng ngọc, lông vũ xanh biếc, ánh lên sắc màu rực rỡ, lộng lẫy quý giá.
Thẩm Minh dịu dàng nói, “Xiêm hồng áo đỏ diêu vàng, bội châu lấp lánh nhẹ nhàng rung lên(*), mong sẽ có ngày được thấy Hàn tiểu thư điểm hồng trang.”
(*) Câu thơ trích từ bài Nghê Thường Vũ Y vũ ca của Bạch Cư Dị, miêu tả bộ trang phục sang trọng quý phái của nàng vũ nữ thướt tha đang nhảy điệu Nghê Thường Vũ Y.
Hàn Minh Tranh trầm ngâm một lúc rồi nhẹ nhàng đặt hộp gấm xuống bàn, “Cảm tạ công tử có lòng, nhưng tôi không dám nhận món quà quý giá này.”
Thẩm Minh đã chuẩn bị trước nên đâu dễ dàng từ bỏ, “Hàn tiểu thư không thích món trang sức này hay là không hài lòng về tôi?”
Hàn Minh Tranh khéo léo trả lời nhưng cũng rất chân thành, “Cả hai đều chẳng phải. Chiếc trâm này quá tinh xảo, Thẩm công tử phong thái lỗi lạc, lại có ân lớn với Hàn gia, tôi vô cùng lấy làm biết ơn, chỉ là ít hôm nữa tôi sẽ trở về Hà Tây, không thể đáp lại tình cảm này.”
Thẩm Minh vẫn dịu dàng nói, “Cô từng bảo mình thích Trường An, vậy cớ gì không ở lại đây cùng huynh trưởng? Hàn gia chớ nên để con gái gánh vác gia nghiệp, cả vẻ đẹp này cũng không nên bị vùi lấp dưới cát bụi biên cương.”
Hàn Minh Tranh dừng lại một thoáng, đoạn bình thản đáp, “Thẩm công tử đã lầm, đâu phải vì trong nhà cần tôi mà là tôi không thể rời xa họ, Hà Tây mới là nơi chốn khiến tôi cảm thấy yên bình, Trường An dẫu đẹp cũng chẳng thể sánh bằng.”
Thẩm Minh ngạc nhiên, không hiểu, “Vì sao Hàn tiểu thư lại cố chấp đến thế? Toàn tộc nhà ngoại cô đã di cư tới Diêm Châu, lệnh đường được gả đến Linh Châu, nếu không vì chiến loạn thì cô đã là danh môn quý nữ trong vùng Quan Nội.”
Hàn Minh Tranh không bất ngờ khi thấy chàng biết những điều đó, nàng không trả lời mà hỏi lại, “Trong mắt công tử, Hà Tây là nơi thế nào?”
Thẩm Minh ngẫm nghĩ một hồi, cảm thấy khó diễn tả.
Đối với chàng, biên ải Hà Tây xa xôi là gió thu lùa qua quan ải đất Hán, là mây mù giăng kín dãy Tây Sơn; là sa mạc mênh mang gió bụi dưới nắng vàng, là ngọn cờ đỏ tung bay nơi tiền tuyến; là những đám mây trắng vắt ngang núi Thanh Hải, là thành trì cô độc hướng về Ngọc Môn Quan; là tiếng sáo vi vu giữa những tòa tháp soi bóng trăng nơi đất Hồ. Đó là tất cả những gì chàng cảm nhận được từ thơ ca và những cuộc chiến biên giới, nhưng tuyệt nhiên không phải là chốn an cư, càng không phải là nơi dành cho những quân tử thanh cao hay giai nhân tựa ngọc.
Hàn Minh Tranh nhẹ nhàng nói tiếp, giọng trong trẻo, “Mười một châu Hà Tây có dân số hơn trăm vạn, nhân khẩu tương đương Trường An nhưng trải dài bốn ngàn dặm. Xưa kia khi người Phồn kéo quân xâm lược, ngoại tổ tôi đã chọn cách rời bỏ, nhưng đến lúc bọn chúng xâm chiếm Diêm Châu, toàn gia tộc vẫn lâm vào cảnh thảm sát. Khi tôi may mắn được Hàn gia nhận nuôi, tôi biết ngoại tổ mình đã sai ở chỗ nào, cụ cho rằng lùi một bước sẽ có thể an tâm, đổi một toà thành lấy được sự bình yên, nhưng chẳng biết kẻ địch man rợ sẽ không bao giờ thỏa mãn, chúng liên tục tàn phá giày xéo ta, nếu không muốn trở thành con mồi tất phải có người vùng lên, phải gác lưỡi đao lên yết hầu quân thù.”
Thẩm Minh nghe thế, sâu trong lòng trào dâng sự kính phục, không khỏi xúc động, “Nhưng cô vẫn chỉ là phận nữ, gìn giữ lãnh thổ vốn là trách nhiệm của đấng nam nhi.”
Hàn Minh Tranh cười khẽ, “Tửu lầu Trường An thường ca ngợi nào là trù tính sau màn, quyết thắng ngàn dặm, tán dương nào là nói cười phá địch, khói diệt giặc Hồ, nhưng tất cả những vinh quang ấy đều đánh đổi từ máu và nước mắt trên sa trường. Tôi chẳng thể quên được thảm cảnh của nhà ngoại tổ, cũng thấu hiểu cha anh đã dốc sức ra sao để bảo vệ bờ cõi, chính mắt tôi đã chứng kiến bao người hùng gục ngã ở hoang mạc, bản thân cũng khổ luyện bao năm trời để kề vai sát cánh cùng họ chiến đấu, chỉ mong giữ vững Hà Tây, sống chết với mảnh đất ấy, nào có chuyện vì tình yêu mà lấy chồng ở Trường An xa xôi, sống một đời an nhàn trong nhung lụa?”
Người con gái trước mặt toả sáng rực rỡ, phong tư hớp hồn người, như chim phượng hoàng lộng lẫy kiêu hãnh, chao liệng trên khoảng trời Tây Bắc cao rộng. Ví mà đem so, dẫu là hậu trạch tướng phủ nơi bao người ước ao cũng trở nên chật hẹp lạ thường, chứa sao xuể đôi cánh khổng lồ sải dài trời cao ấy.
Thẩm Minh thực sự khâm phục nàng từ tận đáy lòng, lần đầu tiên trong đời chàng cảm thấy mình nhỏ bé trước một người con gái, khẽ thở dài, “Quả thật tôi đã đánh giá thấp cô, Hàn tiểu thư có chí lớn, người bình thường không thể so bì.”
Cùng lúc ấy, một sự kiện nóng hổi khác là Hàn Chiêu Văn lần nữa dâng biểu lên triều đình, song không phải để xin kế nhiệm chức Tiết độ sứ mà là Hà Tây nguyện xuất binh đánh trận, phá vỡ chướng ngại giữa Tây Bắc và Trung Nguyên, giải tỏa khúc mắc lẫn khát vọng đã kéo dài nhiều năm của vương triều.
Dẫu đang đứng giữa cơn phong ba, nhà họ Hàn vẫn chẳng màng vinh hoa trước mắt, sẵn lòng chiến đấu vì đại cục trăm năm của triều đình, đủ thấy tấm lòng trung trinh son sắc nhường nào. Thiên tử cảm động, hoan hỉ ngự phê biểu sớ, tán dương nhà họ Hàn không ngớt, lập tức ban chiếu thư cho Hàn Bình Sách tiếp nhận chức Hà Tây Tiết độ sứ, nắm giữ mười một châu; Hàn Chiêu Văn được phong làm Kim Ngô Vệ đại tướng quân, chính tam phẩm, được ban áo vóc tím, cho phép lưu trú tại Trường An; Hàn Minh Tranh được phong làm Tuyên Uy tướng quân, hàng tứ phẩm, ban áo vóc đỏ cùng thắt lưng vàng đính mười một khóa.
Chiếu thư ban xuống, khách khứa liên tục tới chúc mừng nhà họ Hàn, ngựa xe tấp nập, lại còn đúng dịp lễ Vu Lan, không khí vui mừng bao trùm trong ngoài phủ.
Trời thu trong vắt êm đềm, đêm Nguyên Tiêu yên bình, trăng rằm tháng Bảy rạng ngời soi tỏ, trong cung lẫn dân gian rộn ràng sẻ chung niềm hân hoan.
Nghi thức hoàng gia rất hoa lệ trang trọng, Hoàng đế thân dẫn bá quan xuất cung từ Quang Thuận Môn, đến chùa Pháp Môn tổ chức điển lễ thỉnh tiên; cung nữ và thái giám mặc đạo bào, vừa đi vừa cầu nguyện, rộn ràng ca múa; cung nhân khiêng tượng Phật và lễ vật theo sau, dân chúng Trường An nô nức kháo nhau xem, như được chứng kiến thần tiên hạ phàm.
Người đến chùa chiền và đạo quán đông như kiến, tín đồ thi nhau bày lễ vật phong phú, còn mời ca cơ nhạc kỹ đến hiến vũ trước Phật. Bên hồ Khúc Giang lại càng náo nhiệt hơn, cung điện quanh hồ đèn đuốc rực rỡ, là nơi yến tiệc của hoàng thân quốc thích; thế gia danh sĩ tụ hội tại tửu tạ ngoài rìa, bình dân bá tính tản bộ ven hồ ngắm trăng, ca cơ đứng trên đài nước trình diễn khúc hát, đèn hoa đăng dưới tà váy lung linh, khắp chốn rộn rã niềm vui ngày hội, người người du ngoạn đến lúc bình minh lên.
Trong một nhã gian bên bờ hồ, Tôn Khuê cùng nhóm bạn đang vây quanh mỹ nhân chè chén vui đùa, không quên mời Tư Trạm tham gia. Dẫu sao nhà họ Hàn cũng đang được ân sủng còn cậu nhóc này lại ngây thơ, kết giao một chút cũng chẳng hại gì.
Đám công tử ăn chơi đâu biết điểm dừng, nào là bắt mỹ nhân mớm rượu, chơi xúc xắc cởi áo, càng lúc càng dâm loàng khiến Tư Trạm nhìn đến tròn mắt, lòng bất an, nhấp nhổm muốn đi nhưng lại sợ bị trêu chọc.
Thấy bộ dạng cứng ngắc của cậu, Tôn Khuê cười ha hả, mở một chiếc hộp dẹt ra, để lộ mấy viên hồng hoàn, “Ăn một viên đi, thứ này hay lắm, ngây ngất như tiên.”
Tư Trạm không rõ đó là thứ gì, còn đang ngần ngại thì đám công tử đã thi nhau nuốt vào, kẻ chế nhạo cậu là đồ bó cẩn, người lại cười cậu nhà quê chốn biên thuỳ, bọn chúng khích động khiến cậu không nhịn nổi, đang định với tay cầm lấy thì cửa phòng bật mở, Lục Cửu lang bước vào.
Lục Cửu lang ấn lên nắp hộp, cười cợt nói, “Ta đi ngang qua nghe thấy Tôn huynh có món hay, chi bằng để ta hưởng thụ thay thằng nhóc nhà quê này.”
Đám công tử cười ầm lên, Tư Trạm từng bị Lục Cửu lang gây khó dễ nhiều lần cũng nổi giận, bực tức đưa tay giành lấy.
Lục Cửu lang thong thả gạt tay đối phương, chỉ vung tay một cái đã hất cậu ngã ra cửa, “Muốn chơi với ta ư, cậu còn non lắm, về nghỉ ngơi đi!”
Tư Trạm không ngờ đối phương vô lễ đến thế, vừa giận vừa kinh ngạc, nhưng Lục Cửu lang đã quay vào phòng, mặc cậu đứng ngoài đập gọi thế nào, bên trong vẫn cứ cười nói vui đùa, chẳng một ai ra khuyên.
Tư Trạm đứng sững một hồi, cảm thấy mình không hợp với hội này, bực bội quay người bỏ đi.
Đám người trong phòng đã bắt đầu bị dược lực tác động, dần trở nên dâm loạn. Kẻ thì cởi áo múa may, người thì quằn quại như sâu, kẻ lại ôm lấy kỹ nữ phóng túng đồi truỵ, còn Lục Cửu lang dẫu có mỹ nhân trong lòng nhưng chỉ uống rượu, thản nhiên gạt tay hoa nương toan luồn vào vạt áo.
Cái gạt tay không nhẹ làm hoa nương đau đến đỏ mắt, lệ ngấn tròng, Lục Cửu lang nâng cằm nàng ta lên, dỗ ngọt đôi câu làm nàng tan hết giận hờn.
Tôn Khuê đã cởi gần hết áo quần, thấy vậy bèn trêu, “Nghe nói lúc ngươi hành sự không chịu cởi đồ, chỉ thích tắt đèn rồi nhảy bổ vào, sao thế, trên người có sẹo hả?”
Lục Cửu lang chẳng chối, “Lâm trận bị thương, không muốn bị người ta cười nhạo, hơn nữa tắt đèn sẽ càng kích thích hơn.”
Tôn Khuê định trêu tiếp thì bất thình lình cửa phòng bị đạp mạnh mở toang.
Tưởng Hiên mắt đỏ ngầu xông vào, mặt mày u ám, “Ta có chuyện gấp cần bàn riêng với Tôn đại nhân, mời các vị ra ngoài cho!”
Đám công tử chẳng hiểu đầu đuôi, Tôn Khuê nổi giận, “Họ Tưởng kia, đừng có vô cớ phá hỏng hứng thú của ông, cút ngay!”
Tưởng Hiên đã nhẫn nhịn nhiều ngày, binh khí mà quân U Châu mượn đến giờ vẫn chưa thấy trả về, cấp trên thúc giục mấy lần, trung gian lại cứ lẩn tránh, cuối cùng mất luôn dấu vết. Gã bị đẩy đến đường cùng, hạ quyết tâm phải tới đòi lại bằng được, nay thấy Tôn Khuê thản nhiên như không, lửa giận càng bốc lên dữ dội, “Tôn đại nhân không sợ sự việc bại lộ, vậy ta sẽ nói toạc hết với mọi người, đến lúc đó đừng hối hận!”
Một câu bất chấp của gã khiến Tôn Khuê ngạc nhiên. Hắn ỷ có thế lực của cha nuôi làm không ít chuyện bậy bạ, không rõ đối phương nắm được chuyện gì, lòng chột dạ nhưng không muốn mất mặt, khiến bầu không khí trở nên căng thẳng.
Lục Cửu lang rất tinh ý, cười ha hả giải vây, “Được rồi, chúng ta qua gian phòng khác chơi nào, bên kia có mấy huynh đệ bằng hữu của ta, không làm phiền hai vị đại nhân bàn việc lớn nữa.”
Hắn dẫn đám công tử sang gian phòng của hội Cao Tuý, hai bên đều là công tử ăn chơi, ngưu tầm ngưu mã tầm mã, lại một hồi vui vẻ sa đoạ.
Trong phòng chỉ còn lại hai người, Tưởng Hiên đóng chặt cửa, gằn giọng rít lên, “Tôn Khuê, ngươi tưởng kiếm lời từ vũ khí quân đội dễ lắm sao? Đừng nghĩ chuyện này có thể cho qua!”
Tôn Khuê vừa sợ vừa tức, đúng là gần đây hắn đã bán tháo một lô binh khí giá rẻ, đem nộp phần lớn lợi nhuận cho cha nuôi để đổi lấy đối xử ưu ái, nhưng làm sao Tưởng Hiên biết được chuyện này?
Hắn ỷ thế cha nuôi, lại đang lúc dược tính phát tán, ngông cuồng mắng, “Một tên hèn hạ mà dám tống tiền ta, không biết ai đứng sau lưng ta hả?! Có phải ngươi muốn chết không!”
Tưởng Hiên bây giờ đã rơi vào tình cảnh còn tệ hơn cả nợ nần chồng chất, nếu tra xét đến nơi thì bị lăng trì còn nhẹ, gã gào lên, “Mã An Nam thì sao, ông đây đếch sợ! Ngươi có tin ta kéo ngươi chết chung không!”
Tôn Khuê bị hắn dí sát mặt, phun nước bọt khắp mặt, lập tức nổi giận, vung nắm đấm toan đánh người.
Tưởng Hiên là quan văn, làm sao đấu lại nổi Tôn Khuê. Gã bị đánh đau điếng, vừa tức giận vừa nhục nhã, trông thật thảm hại, may là gã đã chuẩn bị trước, rút từ trong áo ra một con dao, vung vẩy lung tung hòng đe doạ. Tôn Khuê toan tránh đi thì đột nhiên đầu gối mềm nhũn, tự dưng lao thẳng vào mũi dao.
Cả hai bàng hoàng chết sững, Tôn Khuê mất sức, loạng choạng gục xuống, sờ tay lên ngực thấy máu chảy ròng ròng.
Tưởng Hiên run rẩy lùi về phía sau, mặt trắng bệch, biết bản thân đã gây ra đại họa liền vội vàng mở cửa chạy trốn.
Trước ngực Tôn Khuê đau nhói, muốn kêu cứu nhưng không cách nào phát ra âm thanh. Đúng lúc này từ cửa sổ phía sau, Lục Cửu lang nhẹ nhàng nhảy vào, hắn lặng lẽ tiếp cận, đá mạnh một cú làm Tôn Khuê đập đầu xuống đất, lưỡi dao cắm sâu lút cán, ngay lập tức mất mạng.
Ngọn nến bạc trong chiếc chân đèn vẫn cháy bập bùng, ánh sáng hắt lên xác người nằm dưới đất, bên cạnh thi thể lăn lóc một chiếc cốc rượu nhỏ, đáy cốc vẫn còn đọng một ít rượu chưa khô.
***
Tư Trạm hăm hở ra ngoài chơi lại tự dưng bị chuốc nhục, cậu vừa xấu hổ vừa tức giận, ôm một bụng ấm ức, rất muốn tìm ai đó để giãi bày.
Bấy giờ Hàn Chiêu Văn đang bận tiếp đãi các quan lại ở cung điện cạnh hồ Khúc Giang, Hàn Minh Tranh đang đãi tiệc ở thủy tạ bên hồ cùng Thẩm Minh, Tư Trạm quyết định đến gặp Hàn Minh Tranh. Nhưng khi đến nơi, nhìn tướng quân và Thẩm công tử ngắm cảnh dưới trăng, chuyện trò hợp ý, cậu cảm thấy không đúng dịp, đang định lặng lẽ lui ra thì bị Hàn Minh Tranh gọi lại.
Tư Trạm ấp úng kể lại chuyện đã xảy ra, vẻ mặt hậm hực, “Lục tướng quân thật vô lý, hết lần này đến lần khác cố ý làm khó đệ. Đệ đã giúp đỡ thị vệ của hắn, không cảm ơn đã đành, lại còn làm đệ bẽ mặt trước mọi người. Nếu không phải sợ ảnh hưởng tới anh rể, đệ đã muốn tẩn cho hắn một trận!”
Hàn Minh Tranh cụp mắt, không nói lời nào.
Thẩm Minh bị quấy rầy nhưng không tức giận, nhẹ nhàng an ủi, “Lục tướng quân ngang ngược quá, tránh xa là đúng rồi. Còn đám công tử kia xưa nay hành vi càn rỡ, không có tiếng tăm tốt, nếu hùa theo bọn chúng uống thuốc làm chuyện bậy bạ, chẳng thà đi về còn hơn.”
Tư Trạm không hiểu, hỏi lại, “Đó là thuốc gì vậy? Đệ thấy họ tranh nhau uống mà đâu có vẻ bệnh tật.”
Tuy Thẩm Minh không dùng nhưng cũng nghe nói ít nhiều, bèn giải thích, “Thiên tử thích hồng hoàn, lũ công tử ăn chơi cũng đua đòi, chế ra loại thuốc tương tự từ mủ cây anh túc trộn lẫn với thạch nhũ, lưu huỳnh và tử thạch anh, uống vào toàn thân nóng bừng, lâng lâng như tiên, có tác dụng kích thích trợ hứng rất mạnh. Loại thuốc này dễ gây nghiện, hại sức khỏe, dùng quá liều có thể đột tử, người đứng đắn đều tránh xa.”
Tư Trạm giật mình hồi tưởng, hiểu nếu nán lại sẽ gây ra chuyện xấu cỡ nào, cậu đỏ bừng mặt, ngượng ngùng nói, “Là đệ sai rồi, lần trước tướng quân đã khuyên đệ không nên giao du với bọn họ.”
Hàn Minh Tranh không trách cứ mà còn tìm việc cho cậu, nàng gỡ thẻ bài bên eo đưa tới, “Nhị ca sai người nhắn rằng tối nay sẽ ở lại điện không về, đệ cầm thẻ bài này vào trong ở lại với ca ca, đừng để ca ca uống say hại thân.”
Tư Trạm không còn ảo não, thậm chí còn cảm thấy nhẹ nhõm, vui vẻ nhận lấy thẻ bài rồi rời đi.
Thủy tạ chỉ còn lại hai người, gió đêm thổi qua, ánh trăng bàng bạc soi sáng, mặt hồ lung linh phản chiếu hàng ngàn chiếc đèn lồng, khung cảnh giống hệt chốn bồng lai tiên cảnh.
Đêm nay Thẩm Minh đã chỉnh trang kỹ lưỡng, trông càng thêm thanh cao quý phái, phong độ xuất chúng, chàng mỉm cười đưa ra một chiếc hộp gấm, “Nhân dịp lễ có chút quà tặng, mong Hàn tiểu thư không chê.”
Vì Hàn Chiêu Văn đã gửi lễ vật trọng hậu đến Thẩm phủ nên Hàn Minh Tranh không chuẩn bị quà cho Thẩm Minh, trong lòng lấy làm áy náy. Nàng mở hộp gấm ra, bên trong là bộ trâm cài hình phượng bằng vàng ngọc, lông vũ xanh biếc, ánh lên sắc màu rực rỡ, lộng lẫy quý giá.
Thẩm Minh dịu dàng nói, “Xiêm hồng áo đỏ diêu vàng, bội châu lấp lánh nhẹ nhàng rung lên(*), mong sẽ có ngày được thấy Hàn tiểu thư điểm hồng trang.”
(*) Câu thơ trích từ bài Nghê Thường Vũ Y vũ ca của Bạch Cư Dị, miêu tả bộ trang phục sang trọng quý phái của nàng vũ nữ thướt tha đang nhảy điệu Nghê Thường Vũ Y.
Hàn Minh Tranh trầm ngâm một lúc rồi nhẹ nhàng đặt hộp gấm xuống bàn, “Cảm tạ công tử có lòng, nhưng tôi không dám nhận món quà quý giá này.”
Thẩm Minh đã chuẩn bị trước nên đâu dễ dàng từ bỏ, “Hàn tiểu thư không thích món trang sức này hay là không hài lòng về tôi?”
Hàn Minh Tranh khéo léo trả lời nhưng cũng rất chân thành, “Cả hai đều chẳng phải. Chiếc trâm này quá tinh xảo, Thẩm công tử phong thái lỗi lạc, lại có ân lớn với Hàn gia, tôi vô cùng lấy làm biết ơn, chỉ là ít hôm nữa tôi sẽ trở về Hà Tây, không thể đáp lại tình cảm này.”
Thẩm Minh vẫn dịu dàng nói, “Cô từng bảo mình thích Trường An, vậy cớ gì không ở lại đây cùng huynh trưởng? Hàn gia chớ nên để con gái gánh vác gia nghiệp, cả vẻ đẹp này cũng không nên bị vùi lấp dưới cát bụi biên cương.”
Hàn Minh Tranh dừng lại một thoáng, đoạn bình thản đáp, “Thẩm công tử đã lầm, đâu phải vì trong nhà cần tôi mà là tôi không thể rời xa họ, Hà Tây mới là nơi chốn khiến tôi cảm thấy yên bình, Trường An dẫu đẹp cũng chẳng thể sánh bằng.”
Thẩm Minh ngạc nhiên, không hiểu, “Vì sao Hàn tiểu thư lại cố chấp đến thế? Toàn tộc nhà ngoại cô đã di cư tới Diêm Châu, lệnh đường được gả đến Linh Châu, nếu không vì chiến loạn thì cô đã là danh môn quý nữ trong vùng Quan Nội.”
Hàn Minh Tranh không bất ngờ khi thấy chàng biết những điều đó, nàng không trả lời mà hỏi lại, “Trong mắt công tử, Hà Tây là nơi thế nào?”
Thẩm Minh ngẫm nghĩ một hồi, cảm thấy khó diễn tả.
Đối với chàng, biên ải Hà Tây xa xôi là gió thu lùa qua quan ải đất Hán, là mây mù giăng kín dãy Tây Sơn; là sa mạc mênh mang gió bụi dưới nắng vàng, là ngọn cờ đỏ tung bay nơi tiền tuyến; là những đám mây trắng vắt ngang núi Thanh Hải, là thành trì cô độc hướng về Ngọc Môn Quan; là tiếng sáo vi vu giữa những tòa tháp soi bóng trăng nơi đất Hồ. Đó là tất cả những gì chàng cảm nhận được từ thơ ca và những cuộc chiến biên giới, nhưng tuyệt nhiên không phải là chốn an cư, càng không phải là nơi dành cho những quân tử thanh cao hay giai nhân tựa ngọc.
Hàn Minh Tranh nhẹ nhàng nói tiếp, giọng trong trẻo, “Mười một châu Hà Tây có dân số hơn trăm vạn, nhân khẩu tương đương Trường An nhưng trải dài bốn ngàn dặm. Xưa kia khi người Phồn kéo quân xâm lược, ngoại tổ tôi đã chọn cách rời bỏ, nhưng đến lúc bọn chúng xâm chiếm Diêm Châu, toàn gia tộc vẫn lâm vào cảnh thảm sát. Khi tôi may mắn được Hàn gia nhận nuôi, tôi biết ngoại tổ mình đã sai ở chỗ nào, cụ cho rằng lùi một bước sẽ có thể an tâm, đổi một toà thành lấy được sự bình yên, nhưng chẳng biết kẻ địch man rợ sẽ không bao giờ thỏa mãn, chúng liên tục tàn phá giày xéo ta, nếu không muốn trở thành con mồi tất phải có người vùng lên, phải gác lưỡi đao lên yết hầu quân thù.”
Thẩm Minh nghe thế, sâu trong lòng trào dâng sự kính phục, không khỏi xúc động, “Nhưng cô vẫn chỉ là phận nữ, gìn giữ lãnh thổ vốn là trách nhiệm của đấng nam nhi.”
Hàn Minh Tranh cười khẽ, “Tửu lầu Trường An thường ca ngợi nào là trù tính sau màn, quyết thắng ngàn dặm, tán dương nào là nói cười phá địch, khói diệt giặc Hồ, nhưng tất cả những vinh quang ấy đều đánh đổi từ máu và nước mắt trên sa trường. Tôi chẳng thể quên được thảm cảnh của nhà ngoại tổ, cũng thấu hiểu cha anh đã dốc sức ra sao để bảo vệ bờ cõi, chính mắt tôi đã chứng kiến bao người hùng gục ngã ở hoang mạc, bản thân cũng khổ luyện bao năm trời để kề vai sát cánh cùng họ chiến đấu, chỉ mong giữ vững Hà Tây, sống chết với mảnh đất ấy, nào có chuyện vì tình yêu mà lấy chồng ở Trường An xa xôi, sống một đời an nhàn trong nhung lụa?”
Người con gái trước mặt toả sáng rực rỡ, phong tư hớp hồn người, như chim phượng hoàng lộng lẫy kiêu hãnh, chao liệng trên khoảng trời Tây Bắc cao rộng. Ví mà đem so, dẫu là hậu trạch tướng phủ nơi bao người ước ao cũng trở nên chật hẹp lạ thường, chứa sao xuể đôi cánh khổng lồ sải dài trời cao ấy.
Thẩm Minh thực sự khâm phục nàng từ tận đáy lòng, lần đầu tiên trong đời chàng cảm thấy mình nhỏ bé trước một người con gái, khẽ thở dài, “Quả thật tôi đã đánh giá thấp cô, Hàn tiểu thư có chí lớn, người bình thường không thể so bì.”