Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 14
Diệp Thanh Hữu nói nghệ thuật pha trà đã học xong, vậy thì cuối tháng thi nhé. Rồi dặn tôi thường xuyên đến trà thất để luyện tập.
Tôi thực sự cần phải luyện nhiều hơn. Không nói đến cái gì khác, chỉ riêng một bước tinh túy nhất trong biểu diễn nghệ thuật pha trà – “Phượng hoàng tam điểm đầu” – tôi làm mãi mà không xong. “Phượng hoàng tam điểm đầu” yêu cầu nghệ nhân trà phải nâng và hạ dòng nước ba lần, kéo dòng nước cao lên rồi hứng nước ở điểm cao, sao cho lượng nước trong ba chén trà rót ra phải đều nhau; tôi thì không kéo dòng nước đủ cao thì cũng làm cho nước bắn tung tóe khắp nơi, lượng nước trong ba chén thì chẳng đều nhau trông như bị chó gặm. Luyện hơn nửa tuần, cuối cùng cũng có thể kéo ra được ba lần lên xuống, nhưng vẫn thường xuyên làm nước văng đầy bàn trà.
Trong thời gian này, Hòa Quang lại chiêu sinh một khóa học viên mới, Diệp Thanh Hữu bắt đầu dẫn dắt học trò từ lớp sơ cấp. Tôi có chút ghen tị, nhưng Diệp Thanh Hữu nói với tôi chờ đến khi lứa đàn em này học xong, tôi có thể lôi họ ra để đổ việc, giống như mỗi lần Trần Quân lười pha trà đều đẩy tôi ra làm thay. Nghe xong, nghĩ lại cũng thấy có chút mong chờ.
Khi họ học đến giờ nghỉ giữa buổi, tôi cũng đã mệt mỏi với việc luyện Phượng hoàng tam điểm đầu. Diệp Thanh Hữu liền gọi tôi qua ngồi uống trà cùng họ. Với nguyên tắc “có trà mà không uống thì là đồ vô ơn”, tôi không chút ngần ngại ngồi xuống trước bàn trà, vừa định lấy chén khách, Diệp Thanh Hữu đã gọi lại: “Gia Gia, chờ chút, để anh lấy chén riêng cho em.”
Tôi khá sững sờ: “Gì, em có chén riêng từ khi nào vậy?”
“Lần trước em thi sơ cấp, anh đã nói sẽ tặng em một chiếc chén riêng rồi mà.” Diệp Thanh Hữu nói, sau đó quay người lấy trên giá một chiếc chén sứ trắng nhỏ. “Này, chén Linh Lung em muốn.”
Đó là một chiếc chén y hệt như tôi đã mô tả, thân chén bằng sứ trắng, phía trên có lớp men trong suốt phủ lên những hoa văn hình cánh hoa rỗng. Mặc dù hình dáng không hoàn toàn cân đối, nhưng thực sự rất độc đáo.
Khi Diệp Thanh Hữu đặt chiếc chén trà nhỏ này trước mặt tôi, tôi đã vui mừng như vừa bị một quả bom hạt nhân rơi trúng đầu, cảm giác được sủng mà lo, tôi không dám tin mà hỏi: “Cái này tặng cho em ạ? Thật sự cho em ạ?”
“Đương nhiên rồi, đã hứa tặng em mà,” Diệp Thanh Hữu đáp. “Từ giờ em có thể dùng chiếc chén Linh Lung này để uống trà.”
Cô đàn em ngồi bên cạnh cũng tò mò ghé sát vào xem: “Đàn anh, đây là chén gì vậy, sao lại có lỗ thế ạ? Nước trà rót vào không bị chảy ra ngoài à?”
Tôi suýt chút nữa đã trả lời “không” theo phản xạ, nhưng rồi mắt tôi sáng lên với một ý tưởng nghịch ngợm, liền bắt đầu lừa phỉnh: “Có chảy chứ, tất nhiên là chảy rồi. Em xem, lát nữa thầy Diệp châm trà vào thì em sẽ thấy nước trà chảy qua mấy lỗ nhỏ này, như vòi sen ấy, đẹp lắm.”
Diệp Thanh Hữu không nhịn được cười, liên tục xua tay: “Đừng nghe em ấy nói vớ vẩn, sao mà chảy được, chảy nước thì làm sao làm chén trà được chứ.”
“Hả?” Cô đàn em nghe chúng tôi nói mà rối hết cả lên, ngơ ngác hỏi: “Nhưng nó có lỗ mà, tại sao không chảy nước ra ạ?”
“Vì nước có sức căng bề mặt,” Diệp Thanh Hữu giải thích. “Em đã từng nghe câu chuyện cổ tích về cô gái đâm kim qua đế giày da nhưng nước trong giày không chảy ra chưa? Bề mặt nước có sức căng, sẽ kéo căng qua các lỗ hở này, nên khi rót trà vào sẽ không chảy ra ngoài đâu.”
Tôi không nhịn được cười phá lên.
Thật không ngờ Diệp Thanh Hữu cũng giỏi nói đùa mà mặt vẫn rất nghiêm túc như vậy!
Sau khi uống xong hai chén trà, Diệp Thanh Hữu chuẩn bị giảng bài cho cô đàn em mới thì điện thoại của anh ấy bỗng đổ chuông. Anh cúi xuống nhìn màn hình, nét mặt bỗng trở nên vui vẻ, vừa nhấc điện thoại lên vừa nói với tôi: “Gia Gia, anh ra ngoài nghe điện thoại chút. Đàn em của em đang học về trà xanh, em phụ trách bàn trà và giảng vài kiến thức cơ bản giúp anh, anh sẽ quay lại ngay.” Nói xong, anh ấy liền đi ra phía sau tủ trưng bày để nghe điện thoại. Tiếng cười nhẹ của anh ấy vang lên từ sau tấm vách gỗ, tôi loáng thoáng nghe thấy những từ như “sư phụ”, “quay về Hòa Quang”, “khóa học cao cấp”.
Tôi có chút ngẩn ngơ. Mặc dù Diệp Thanh Hữu đã nói từ trước anh ấy sẽ để tôi thử giảng dạy cho các đàn em để rèn luyện và củng cố kiến thức, nhưng tôi không ngờ lần này lại đến bất ngờ như vậy, khiến tôi không chưa kịp chuẩn bị, hoàn toàn không biết phải giảng cái gì. Trong ánh mắt tò mò của đàn em, tôi từ từ ngồi vào vị trí chính giữa bàn trà, đúng lúc nhìn thấy cuốn sổ ghi chép mà Diệp Thanh Hữu đã mở sẵn trên bàn.
Chữ viết thanh thoát rõ ràng, dòng đầu tiên ghi: “Diệp Gia tự Thanh Hữu, hiệu là ngài Ngọc Xuyên.” Trong lòng tôi bỗng giật mình, mặt đỏ bừng, sững sờ mất một lúc mới nhớ ra đây là nội dung trong bài học về nguồn gốc và sự phát triển của trà, trích từ cuốn Văn phòng tứ phổ của Tô Dịch Giản, nói về những tên gọi trang nhã của trà trong thời cổ đại.
Bây giờ tôi đã mê mẩn đến mức chỉ cần nhìn thấy tên mình và tên Diệp Thanh Hữu xuất hiện cùng một câu là tim lại đập rộn ràng rồi sao?
Nghĩ lại, tên tôi là “Gia”, tên Diệp Thanh Hữu là “Thanh Hữu”, vậy nếu giả sử chúng tôi có thể đến với nhau, rồi cộng thêm một chút tưởng tượng có lẽ chúng tôi sẽ nhận nuôi một đứa con, và đứa con đó sẽ được đặt tên là Diệp Ngọc Xuyên… Không đúng, tại sao con tôi nhận nuôi lại phải mang họ Diệp? Nó phải mang họ tôi chứ, là Tạ Ngọc Xuyên mới đúng…
“Đàn anh Tạ Gia, đàn anh Tạ Gia?” Cô đàn em vừa hỏi tôi về chén Linh Lung lúc nãy vẫy tay trước mặt tôi. “Thầy Diệp không bảo đàn anh giảng bài cho tụi em ạ?”
“À, giảng bài… Đúng, giảng bài!” Tôi bỗng giật mình tỉnh lại, mặt đỏ bừng, ho khẽ để điều chỉnh cảm xúc rồi quay lại với bàn trà trước mặt. “Hôm nay các em học về trà xanh đúng không? Vậy để anh nói sơ qua một chút về cách pha trà xanh… Thầy Diệp đã giảng cho các em biết trà xanh thích hợp dùng loại trà cụ nào để pha chưa? Nói rồi à? Vậy được, anh sẽ làm mẫu cách pha bằng chén có nắp…”
Tôi vừa nói vừa đưa tay ra chạm vào ấm nước sôi, không ngoài dự đoán bị bỏng và rụt tay lại ngay. Đàn em lo lắng hỏi: “Đàn anh Tạ, nước này mới sôi, tay anh không đau sao?” Tôi lắc đầu, nói: “Không đau, cơ thể con người có phản xạ điều kiện, khi chạm vào thứ quá nóng thì tay sẽ tự động rút lại ngay. Các em phải nhớ rằng, nhiệt độ thích hợp để pha trà xanh là từ 80 đến 85 độ C, nếu nước quá nóng sẽ làm hỏng lá trà. Làm sao để biết nước đã đạt 80 độ? Là dùng tay kiểm tra như anh.”
Tôi nói xong liền đưa ngón tay chạm lại vào ấm nước: “Nếu nhiệt độ nước quá cao, tay các em sẽ không chịu nổi và phải rụt lại ngay. Khi ngón tay có thể đặt lên ấm nước khoảng ba đến bốn giây rồi mới phải rút ra, lúc đó nhiệt độ nước khoảng 80 độ rồi.”
Cô đàn em gật đầu nghiêm túc, còn lấy sổ tay ra ghi chép lại, khiến tôi – người luôn quen ghi chú bằng điện thoại – cảm thấy rất xấu hổ.
“Nếu gặp tình huống cần pha trà ngay cho khách mà nhiệt độ nước mãi không giảm, chúng ta có thể thực hiện một vài biện pháp để hạ nhiệt nhanh hơn – gọi là làm nguội nước. Trong nghệ thuật pha trà xanh, bước này được gọi là ‘Ngọc hồ dưỡng thái hòa’,” tôi tiếp tục giải thích, vừa nói vừa đổ nước từ ấm vào bình chuyên để làm mẫu cho sư muội. “Như thế này, nước sẽ nhanh chóng hạ xuống khoảng 80 độ.”
*”Ngọc hồ dưỡng thái hòa” (玉壶养太和) là một thuật ngữ trong nghệ thuật trà đạo, đặc biệt liên quan đến quy trình pha trà xanh. Cụm từ này mô tả bước làm nguội nước sau khi đun sôi để đạt đến nhiệt độ thích hợp cho việc pha trà, thường là 80-85 độ C, nhằm tránh làm hỏng lá trà và giữ được hương vị tinh tế của trà xanh.
Đàn em liền đưa tay chạm thử vào bình chuyên, lập tức bị bỏng rụt tay lại: “Nếu nhiệt độ vẫn không hạ thì sao?”
“Nếu vẫn không hạ được, chúng ta có thể áp dụng biện pháp ‘tà giáo’ một chút,” tôi cười tinh quái, “Chẳng hạn như đổ trực tiếp nước tinh khiết lạnh vào…”
“Tạ Gia!”
Đột nhiên tôi nghe thấy giọng Diệp Thanh Hữu nghiêm nghị ngăn tôi lại, tôi sững người, ngẩng đầu lên thì thấy anh ấy đã cúp máy và đi vòng qua tủ trưng bày tiến về phía tôi. Tôi vội vàng đứng lên, nhường lại bàn trà cho anh ấy: “Đàn anh Diệp…”
“Cái gì mà tà giáo với không tà giáo, không biết thì đừng có nói lung tung,” Diệp Thanh Hữu nói với tôi. Giọng điệu không quá căng thẳng, nhưng so với sự ôn hòa thường ngày của anh ấy, tông giọng này cũng có thể coi là trách mắng rồi. Sau khi khiển trách tôi, anh ấy quay sang giải thích với đàn em: “Cách mà Tạ Gia vừa nói là một biện pháp làm mát nước bình thường. Tất nhiên, trước khi thêm nước lạnh, các em phải nhớ giải thích với khách rằng đó là nước tinh khiết, sạch sẽ và có thể uống trực tiếp. Trà đã uống rồi, giờ vào học chính thức nhé.”
Anh ấy ngồi lại phía sau bàn trà, còn tôi đứng ngơ ngác bên cạnh bàn, không biết làm gì, nhìn về phía anh, Diệp Thanh Hữu hờ hững liếc tôi một cái, nói: “Tạ Gia, em đi đến đài luyện tập mà tự luyện phần biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh đi. Sau giờ học, anh có chuyện muốn nói với em.”
–
Tôi thực sự cần phải luyện nhiều hơn. Không nói đến cái gì khác, chỉ riêng một bước tinh túy nhất trong biểu diễn nghệ thuật pha trà – “Phượng hoàng tam điểm đầu” – tôi làm mãi mà không xong. “Phượng hoàng tam điểm đầu” yêu cầu nghệ nhân trà phải nâng và hạ dòng nước ba lần, kéo dòng nước cao lên rồi hứng nước ở điểm cao, sao cho lượng nước trong ba chén trà rót ra phải đều nhau; tôi thì không kéo dòng nước đủ cao thì cũng làm cho nước bắn tung tóe khắp nơi, lượng nước trong ba chén thì chẳng đều nhau trông như bị chó gặm. Luyện hơn nửa tuần, cuối cùng cũng có thể kéo ra được ba lần lên xuống, nhưng vẫn thường xuyên làm nước văng đầy bàn trà.
Trong thời gian này, Hòa Quang lại chiêu sinh một khóa học viên mới, Diệp Thanh Hữu bắt đầu dẫn dắt học trò từ lớp sơ cấp. Tôi có chút ghen tị, nhưng Diệp Thanh Hữu nói với tôi chờ đến khi lứa đàn em này học xong, tôi có thể lôi họ ra để đổ việc, giống như mỗi lần Trần Quân lười pha trà đều đẩy tôi ra làm thay. Nghe xong, nghĩ lại cũng thấy có chút mong chờ.
Khi họ học đến giờ nghỉ giữa buổi, tôi cũng đã mệt mỏi với việc luyện Phượng hoàng tam điểm đầu. Diệp Thanh Hữu liền gọi tôi qua ngồi uống trà cùng họ. Với nguyên tắc “có trà mà không uống thì là đồ vô ơn”, tôi không chút ngần ngại ngồi xuống trước bàn trà, vừa định lấy chén khách, Diệp Thanh Hữu đã gọi lại: “Gia Gia, chờ chút, để anh lấy chén riêng cho em.”
Tôi khá sững sờ: “Gì, em có chén riêng từ khi nào vậy?”
“Lần trước em thi sơ cấp, anh đã nói sẽ tặng em một chiếc chén riêng rồi mà.” Diệp Thanh Hữu nói, sau đó quay người lấy trên giá một chiếc chén sứ trắng nhỏ. “Này, chén Linh Lung em muốn.”
Đó là một chiếc chén y hệt như tôi đã mô tả, thân chén bằng sứ trắng, phía trên có lớp men trong suốt phủ lên những hoa văn hình cánh hoa rỗng. Mặc dù hình dáng không hoàn toàn cân đối, nhưng thực sự rất độc đáo.
Khi Diệp Thanh Hữu đặt chiếc chén trà nhỏ này trước mặt tôi, tôi đã vui mừng như vừa bị một quả bom hạt nhân rơi trúng đầu, cảm giác được sủng mà lo, tôi không dám tin mà hỏi: “Cái này tặng cho em ạ? Thật sự cho em ạ?”
“Đương nhiên rồi, đã hứa tặng em mà,” Diệp Thanh Hữu đáp. “Từ giờ em có thể dùng chiếc chén Linh Lung này để uống trà.”
Cô đàn em ngồi bên cạnh cũng tò mò ghé sát vào xem: “Đàn anh, đây là chén gì vậy, sao lại có lỗ thế ạ? Nước trà rót vào không bị chảy ra ngoài à?”
Tôi suýt chút nữa đã trả lời “không” theo phản xạ, nhưng rồi mắt tôi sáng lên với một ý tưởng nghịch ngợm, liền bắt đầu lừa phỉnh: “Có chảy chứ, tất nhiên là chảy rồi. Em xem, lát nữa thầy Diệp châm trà vào thì em sẽ thấy nước trà chảy qua mấy lỗ nhỏ này, như vòi sen ấy, đẹp lắm.”
Diệp Thanh Hữu không nhịn được cười, liên tục xua tay: “Đừng nghe em ấy nói vớ vẩn, sao mà chảy được, chảy nước thì làm sao làm chén trà được chứ.”
“Hả?” Cô đàn em nghe chúng tôi nói mà rối hết cả lên, ngơ ngác hỏi: “Nhưng nó có lỗ mà, tại sao không chảy nước ra ạ?”
“Vì nước có sức căng bề mặt,” Diệp Thanh Hữu giải thích. “Em đã từng nghe câu chuyện cổ tích về cô gái đâm kim qua đế giày da nhưng nước trong giày không chảy ra chưa? Bề mặt nước có sức căng, sẽ kéo căng qua các lỗ hở này, nên khi rót trà vào sẽ không chảy ra ngoài đâu.”
Tôi không nhịn được cười phá lên.
Thật không ngờ Diệp Thanh Hữu cũng giỏi nói đùa mà mặt vẫn rất nghiêm túc như vậy!
Sau khi uống xong hai chén trà, Diệp Thanh Hữu chuẩn bị giảng bài cho cô đàn em mới thì điện thoại của anh ấy bỗng đổ chuông. Anh cúi xuống nhìn màn hình, nét mặt bỗng trở nên vui vẻ, vừa nhấc điện thoại lên vừa nói với tôi: “Gia Gia, anh ra ngoài nghe điện thoại chút. Đàn em của em đang học về trà xanh, em phụ trách bàn trà và giảng vài kiến thức cơ bản giúp anh, anh sẽ quay lại ngay.” Nói xong, anh ấy liền đi ra phía sau tủ trưng bày để nghe điện thoại. Tiếng cười nhẹ của anh ấy vang lên từ sau tấm vách gỗ, tôi loáng thoáng nghe thấy những từ như “sư phụ”, “quay về Hòa Quang”, “khóa học cao cấp”.
Tôi có chút ngẩn ngơ. Mặc dù Diệp Thanh Hữu đã nói từ trước anh ấy sẽ để tôi thử giảng dạy cho các đàn em để rèn luyện và củng cố kiến thức, nhưng tôi không ngờ lần này lại đến bất ngờ như vậy, khiến tôi không chưa kịp chuẩn bị, hoàn toàn không biết phải giảng cái gì. Trong ánh mắt tò mò của đàn em, tôi từ từ ngồi vào vị trí chính giữa bàn trà, đúng lúc nhìn thấy cuốn sổ ghi chép mà Diệp Thanh Hữu đã mở sẵn trên bàn.
Chữ viết thanh thoát rõ ràng, dòng đầu tiên ghi: “Diệp Gia tự Thanh Hữu, hiệu là ngài Ngọc Xuyên.” Trong lòng tôi bỗng giật mình, mặt đỏ bừng, sững sờ mất một lúc mới nhớ ra đây là nội dung trong bài học về nguồn gốc và sự phát triển của trà, trích từ cuốn Văn phòng tứ phổ của Tô Dịch Giản, nói về những tên gọi trang nhã của trà trong thời cổ đại.
Bây giờ tôi đã mê mẩn đến mức chỉ cần nhìn thấy tên mình và tên Diệp Thanh Hữu xuất hiện cùng một câu là tim lại đập rộn ràng rồi sao?
Nghĩ lại, tên tôi là “Gia”, tên Diệp Thanh Hữu là “Thanh Hữu”, vậy nếu giả sử chúng tôi có thể đến với nhau, rồi cộng thêm một chút tưởng tượng có lẽ chúng tôi sẽ nhận nuôi một đứa con, và đứa con đó sẽ được đặt tên là Diệp Ngọc Xuyên… Không đúng, tại sao con tôi nhận nuôi lại phải mang họ Diệp? Nó phải mang họ tôi chứ, là Tạ Ngọc Xuyên mới đúng…
“Đàn anh Tạ Gia, đàn anh Tạ Gia?” Cô đàn em vừa hỏi tôi về chén Linh Lung lúc nãy vẫy tay trước mặt tôi. “Thầy Diệp không bảo đàn anh giảng bài cho tụi em ạ?”
“À, giảng bài… Đúng, giảng bài!” Tôi bỗng giật mình tỉnh lại, mặt đỏ bừng, ho khẽ để điều chỉnh cảm xúc rồi quay lại với bàn trà trước mặt. “Hôm nay các em học về trà xanh đúng không? Vậy để anh nói sơ qua một chút về cách pha trà xanh… Thầy Diệp đã giảng cho các em biết trà xanh thích hợp dùng loại trà cụ nào để pha chưa? Nói rồi à? Vậy được, anh sẽ làm mẫu cách pha bằng chén có nắp…”
Tôi vừa nói vừa đưa tay ra chạm vào ấm nước sôi, không ngoài dự đoán bị bỏng và rụt tay lại ngay. Đàn em lo lắng hỏi: “Đàn anh Tạ, nước này mới sôi, tay anh không đau sao?” Tôi lắc đầu, nói: “Không đau, cơ thể con người có phản xạ điều kiện, khi chạm vào thứ quá nóng thì tay sẽ tự động rút lại ngay. Các em phải nhớ rằng, nhiệt độ thích hợp để pha trà xanh là từ 80 đến 85 độ C, nếu nước quá nóng sẽ làm hỏng lá trà. Làm sao để biết nước đã đạt 80 độ? Là dùng tay kiểm tra như anh.”
Tôi nói xong liền đưa ngón tay chạm lại vào ấm nước: “Nếu nhiệt độ nước quá cao, tay các em sẽ không chịu nổi và phải rụt lại ngay. Khi ngón tay có thể đặt lên ấm nước khoảng ba đến bốn giây rồi mới phải rút ra, lúc đó nhiệt độ nước khoảng 80 độ rồi.”
Cô đàn em gật đầu nghiêm túc, còn lấy sổ tay ra ghi chép lại, khiến tôi – người luôn quen ghi chú bằng điện thoại – cảm thấy rất xấu hổ.
“Nếu gặp tình huống cần pha trà ngay cho khách mà nhiệt độ nước mãi không giảm, chúng ta có thể thực hiện một vài biện pháp để hạ nhiệt nhanh hơn – gọi là làm nguội nước. Trong nghệ thuật pha trà xanh, bước này được gọi là ‘Ngọc hồ dưỡng thái hòa’,” tôi tiếp tục giải thích, vừa nói vừa đổ nước từ ấm vào bình chuyên để làm mẫu cho sư muội. “Như thế này, nước sẽ nhanh chóng hạ xuống khoảng 80 độ.”
*”Ngọc hồ dưỡng thái hòa” (玉壶养太和) là một thuật ngữ trong nghệ thuật trà đạo, đặc biệt liên quan đến quy trình pha trà xanh. Cụm từ này mô tả bước làm nguội nước sau khi đun sôi để đạt đến nhiệt độ thích hợp cho việc pha trà, thường là 80-85 độ C, nhằm tránh làm hỏng lá trà và giữ được hương vị tinh tế của trà xanh.
Đàn em liền đưa tay chạm thử vào bình chuyên, lập tức bị bỏng rụt tay lại: “Nếu nhiệt độ vẫn không hạ thì sao?”
“Nếu vẫn không hạ được, chúng ta có thể áp dụng biện pháp ‘tà giáo’ một chút,” tôi cười tinh quái, “Chẳng hạn như đổ trực tiếp nước tinh khiết lạnh vào…”
“Tạ Gia!”
Đột nhiên tôi nghe thấy giọng Diệp Thanh Hữu nghiêm nghị ngăn tôi lại, tôi sững người, ngẩng đầu lên thì thấy anh ấy đã cúp máy và đi vòng qua tủ trưng bày tiến về phía tôi. Tôi vội vàng đứng lên, nhường lại bàn trà cho anh ấy: “Đàn anh Diệp…”
“Cái gì mà tà giáo với không tà giáo, không biết thì đừng có nói lung tung,” Diệp Thanh Hữu nói với tôi. Giọng điệu không quá căng thẳng, nhưng so với sự ôn hòa thường ngày của anh ấy, tông giọng này cũng có thể coi là trách mắng rồi. Sau khi khiển trách tôi, anh ấy quay sang giải thích với đàn em: “Cách mà Tạ Gia vừa nói là một biện pháp làm mát nước bình thường. Tất nhiên, trước khi thêm nước lạnh, các em phải nhớ giải thích với khách rằng đó là nước tinh khiết, sạch sẽ và có thể uống trực tiếp. Trà đã uống rồi, giờ vào học chính thức nhé.”
Anh ấy ngồi lại phía sau bàn trà, còn tôi đứng ngơ ngác bên cạnh bàn, không biết làm gì, nhìn về phía anh, Diệp Thanh Hữu hờ hững liếc tôi một cái, nói: “Tạ Gia, em đi đến đài luyện tập mà tự luyện phần biểu diễn nghệ thuật pha trà xanh đi. Sau giờ học, anh có chuyện muốn nói với em.”
–