Xương Rồng Đốt Rương - Trang 4
Quyển 7 - Chương 3
Rồng rơi.
Rơi như thế nào? Rơi mạnh từ trên cao xuống ư? Hèn chi khắp nơi rung chuyển, mặt đất cũng nghiêng ngả.
Mạnh Thiên Tư rất muốn biết cảnh tượng đó như thế nào, nghe người ta miêu tả lại thôi cũng được, nhưng không thể ép Thần Côn về nằm mơ tiếp được – Giấc mơ của Thần Côn còn quý giá hơn nước suối mùa hạn nữa, bao nhiêu ngày như vậy mới được một hai hồi.
Cô ôm nỗi lòng phiền muộn khôn tả, ngả đầu vào gối, từ từ thiếp đi.
Đến nửa đêm, nghe thấy tiếng Giang Luyện gọi mình, Mạnh Thiên Tư mơ màng mở mắt, chỉ cảm thấy trên mặt lấm chấm cảm giác buốt lạnh, lại nghe Giang Luyện nhẹ nhàng nói: “Thiên Tư, mưa rồi, về phòng ngủ thôi.”
Cô ngây ngô ừ một tiếng, dùng chân quờ quạng tìm giày, mê man về phòng, vừa tới giường đã nằm vật xuống.
Sáng sớm hôm sau, bị tiếng mưa rơi dày đặc đánh thức, xuyên qua khung cửa sổ dán giấy hoa họa tiết có thể trông thấy từng tia từng tia mưa lao xuống, mưa đã lớn hơn từ đêm qua.
Mạnh Thiên Tư nằm một lúc mới nhận ra âm thanh không đúng, trong tiếng mưa còn lẫn tiếng điện thoại đổ chuông, cô vươn tay quờ quạng bốn phía, lấy tới trước mặt, vừa nhìn đã ngồi bật dậy, hết sạch buồn ngủ.
Người gọi video tới là Cao Kinh Hồng.
Mạnh Thiên Tư vội vàng vuốt tóc rồi ấn nhận cuộc gọi, trên màn hình hiện lên khuôn mặt Cao Kinh Hồng, hai mắt sưng vù, tóc tai cũng có phần mất trật tự, xem cảnh nền, bà đang dựa người trên giường.
Thì ra me lớn cũng có lúc không chú ý tới dáng vẻ, Mạnh Thiên Tư thầm oán trách u năm trước, cảm thấy là do Thù Bích Ảnh chuyển lời không đủ uyển chuyển, nhưng nghĩ lại, me lớn và cụ Đoàn tình như mẹ con, có chuyển lời uyển chuyển hơn nữa cũng khó tránh khỏi đau lòng một trận mãnh liệt.
Cao Kinh Hồng lúc này không giống một bậc trưởng lão xử sự thỏa đáng mà ngược lại, giống một đứa trẻ không biết phải làm sao, vừa mở miệng đã hỏi cô: “Bé Tư, me Đoàn có khi nào đã phơi thây nơi đất hoang không?”
Mạnh Thiên Tư không đáp.
Có thể lắm, cô cảm thấy là vậy, người như Diêm La, giết người rồi còn có thể hảo tâm giúp đỡ chôn cất tử tế cho sao?
Chỉ là không thể nói thẳng như vậy được.
Hốc mắt Cao Kinh Hồng đỏ hoe: “Đêm qua me mơ thấy me Đoàn, bà nói bà chết không được yên ổn, trên không chạm trời dưới không chạm đất, mỗi ngày đều rất mệt mỏi, rất khổ cực…”
Mạnh Thiên Tư nói: “Me lớn, đó là do ban ngày me nghĩ nhiều quá nên đêm về ngủ mơ thôi, là me quá lo âu, đừng cho là thật.”
Cao Kinh Hồng hỏi một đằng nói một nẻo: “Sáng nay me đã bảo Liễu thư nhi tìm trạm non quê đầu Côn Lôn, từ giờ trở đi phải lục soát từng tấc núi kiểu trải thảm, me cứ nghĩ tới me Đoàn chết cũng không được xuống mồ là lại…”
Còn chưa dứt lời, chợt khóc nức lên.
Trước nay Mạnh Thiên Tư đều không ngờ rằng Cao Kinh Hồng có thể khóc – me lớn cùng lắm cũng chỉ thương cảm, thở dài một hơi thanh nhã, đến tư thái nhíu mày cũng vừa đúng.
Cô sững người ngồi đó, không biết phải an ủi thế nào, hối hận vì đã nhận cuộc gọi này, không nhận sẽ không phải thấy me lớn suy sụp, lại chợt cảm thấy, những người mà mình vẫn luôn ỷ lại này thực ra cũng không hề cứng rắn như sắt thép, có đôi lúc, họ sẽ cần cô dìu đỡ.
Cũng may, Liễu thư nhi nhanh chóng chạy tới trước mặt, vội vàng đỡ Cao Kinh Hồng nằm xuống: “Ôi chị Hồng, thân thể mình mình lại không biết sao, không thể chịu khổ như thế đâu…”
Mạnh Thiên Tư lặng lẽ ấn cúp máy.
Lặng người một lát, cô lại gọi cho Lộ Tam Minh, phân phó y mau chóng đưa bản đồ núi khu vực này tới cho cô.
***
Lúc Giang Luyện rời giường, Tì Hưu đã thu xếp người làm bữa sáng, đang bày chiếc bàn nhỏ hình vuông dưới mái hiên che mưa, đặt vài cái ghế xếp nhỏ, còn hỏi là ăn mì gạo hay ăn cháo bột. Sáng sớm, Giang Luyện không muốn ăn cái gì vị quá tạp, bèn xin một bát trà dầu, Thần Côn đang không biết chọn sao, nghe hắn lấy trà dầu cũng bắt chước theo.
Rửa mặt xong đi qua mới nhận ra, thà ăn mì gạo còn hơn: cháo bột nấu quá cầu kỳ, cháo nấu bằng nước xương, bên cạnh còn đặt thêm một cái đĩa nhỏ có hành tươi, rau thơm, bỏng gạo, quả giòn, lạc chiên bơ, còn có cá thái miếng hình bướm cắt nát đến độ tróc cả da – đây có phải cháo bột đâu, sắp thành nguyên nồi lẩu tới nơi rồi.
Cửa phòng Mạnh Thiên Tư đóng kín, đại khái là còn chưa thức giấc.
Mưa trên mái hiên nhỏ giọt xuống, trên bàn ăn đậm đà hương sắc, dùng bữa trong hoàn cảnh này cũng thật tuyệt vời.
Giang Luyện bận trộn bát cháo bột của mình, biết không có hi vọng gì, song vẫn hỏi Thần Côn: “Đêm qua…có mơ thêm được gì nữa không?”
Thần Côn liếc xéo hắn: “Tiểu Luyện Luyện, cậu trông mong tôi mơ ra kết cục luôn đấy hả?”
Giang Luyện nói: “Vậy là tốt nhất, nếu có thể làm biếng, ai đôn đáo làm gì.”
Cháo bột nóng bỏng miệng, nhất thời không ăn ngay được, đại khái nhìn cháo trong bát cũng giông giống nước trong hồ, khiến Thần Côn nhớ tới chuyện ma nước: “Này, Tiểu Luyện Luyện, ma nước có mỗi ba họ thôi.”
Đúng vậy, người ta còn tự xưng là “ba họ ma nước” cơ mà, Giang Luyện ăn một miếng cháo: “Ba họ Đinh, Khương, Dịch, rất dễ nhớ.”
“Vậy cậu có cảm thấy ba cái họ này rất đáng nghiền ngẫm không?”
Nghiền ngẫm á? Giang Luyện múc một thìa bỏng gạo bỏ vào miệng, bỏng gạo ở đây thực ra không phải là bỏng mà là gạo nếp chưng chín phơi khô rồi chiên dầu, giòn rụm thơm ngon, nhai rất sướng răng: “Không phải đều có trong Bách gia tính à?”
Thần Côn khinh thường hắn: “Khắp thiên hạ thiếu gì người họ Đinh, Khương, Dịch, thông thường có rất nhiều nguồn gốc, tối qua tôi tra kỹ càng nguồn gốc của ba họ này, phát hiện ra trong đó có ngụ ý.”
Giang Luyện rút khăn giấy trên bàn lau miệng, tạm dừng ăn: “Chú nói đi.”
Phối hợp như vậy làm Thần Côn có cảm giác mình rất được coi trọng, nảy sinh cảm giác thành tựu một cách tự nhiên: “Họ Dịch (易), cậu tách thử chữ này ra xem, bên trên là chữ ‘Nhật (日)’, bên dưới là một chữ ‘Nguyệt (月)’ dị hình, theo truyền thuyết, Hoàng Đế phỏng theo hình dạng nhật nguyệt để tạo nên ‘Dịch’, họ này là hậu duệ của Hoàng Đế.”
“Họ Khương vốn xuất thân từ Thần Nông thị, vì Viêm Đế sống bên sông Khương nên lấy tên sông làm họ.”
Nguồn gốc có vẻ không nhỏ, Giang Luyện trầm ngâm: “Vậy họ Đinh thì sao?”
“Họ Đinh thì không trực tiếp như vậy, nhưng có một hệ họ Đinh bắt nguồn từ họ Khương, trong sách ‘Tính thị’ viết là ‘Hệ thừa Khương’, nói cách khác là họ Khương tách ra một chi, từ đó về sau mang họ Đinh – nếu họ Đinh của ba họ ma nước bây giờ là tách từ họ Khương ra thì ba họ ma nước đều hoàn toàn có nguồn gốc từ Viêm Hoàng, hơn nữa…”
Nói tới đây, lão hạ giọng: “Cậu có nhận ra là ba họ này rất khép kín, không thông gia với họ khác không?”
Giang Luyện ngạc nhiên: “Đâu có, cô gái tên Dịch Táp trong video kia có bạn trai mà, không phải là họ Tông à, tên là Tông Hàng.”
Thần Côn cáu: “Ý tôi là trước kia! Trước kia!”
Trước kia à, vậy thì đúng, Giang Luyện gật đầu.
Ba họ kết thông gia với nhau, bởi vậy nên đời sau đều không thoát khỏi ba họ này, càng khiến người ta trố mắt hơn là ba họ có thể kết nạp người ngoài, nhưng có hai điều kiện.
Một là người đó phải đổi họ.
Điều này chẳng hề gì, đổi cái họ thôi mà, cũng không cần thiết phải so đo, chỉ là chuyện vô thưởng vô phạt.
Hai là người đó phải tuyệt hậu.
Nói cách khác, một khi anh vào ba họ thì cả đời đừng mong lấy vợ sinh con, không được có đời sau – điều này rất tệ, phải biết rằng quan niệm truyền thống của người Trung Quốc là “Tội bất hiếu có ba cái, không có đời sau là lớn nhất”.
Bởi vậy nên hai điều kiện này kết hợp với nhau rồi, hàm ý ra sao không cần nói cũng biết, đó chính là: Không có cửa câu, chúng tôi không kết nạp họ khác.
Giang Luyện lẩm bẩm: “Cũng may mà mỗi nhánh của ba họ đều đông người, phạm vi lựa chọn để kết hôn lớn, chứ nếu ít người hơn mà lại kết hôn họ hàng gần thì qua qua lại lại cũng…”
Thần Côn cảm thấy tầm mắt hắn quá hạn hẹp: “Một gia tộc thần bí như vậy, cậu cho rằng họ sẽ chịu mấy cái kết hôn họ hàng gần hay tuyệt tự gì đó hạn chế sao? Đó là cậu chưa từng nghe đến nhà họ Thịnh giữ chuông…”
Lão nhận ra mình lạc đề, bèn quay lại chủ đề chính: “Ma nước làm vậy, cậu có nhìn ra lý lẽ bên trong không?”
Không, Giang Luyện gắng thử vận may: “Chứng tỏ gia quy nhà họ rất nghiêm?”
Thần Côn thở dài: “Tiểu Luyện Luyện, tôi đúng là đánh giá trí thông minh của cậu quá cao rồi. Ngoài xem biểu hiện bên ngoài của toàn cục ra, cậu phải nhìn xuyên vào bản chất hiện tượng nữa: Bên ngoài biểu hiện họ rất khép kín, gia quy nghiêm khắc, nhưng nghĩ sâu vào trong, cậu không cảm thấy là họ đang giữ gìn huyết mạch…thuần khiết sao?”
Trong lòng Giang Luyện đánh thịch một tiếng.
Đúng vậy, ba họ Đinh, Khương, Dịch thông gia lẫn nhau, quan hệ huyết thống thân thích mấy ngàn năm đều chỉ qua lại trong nội bộ ba họ, vất vả mãi mới kết nạp thêm họ khác vào, lại không cho phép có con nối dõi, nói cách khác, huyết mạch sẽ không bao giờ bị “ô nhiễm”.
Thần Côn bổ sung: “Cậu nhìn lại quỷ non xem, quỷ non không giống vậy, mấy ngày nay chúng ta gặp được đủ các họ Mạnh, Liễu, Thẩm, Lộ… Tôi hoài nghi liệt kê hết các họ trong quỷ non chắc đủ cả một bộ Bách gia tính ấy chứ. Ai cổ xưa hơn, thuần khiết hơn, thể chất và huyết mạch của ai gần với tổ tông khi xưa hơn, không phải là vừa thấy đã ra à? Thế nên, ma nước khép kín như vậy sở dĩ là để bảo vệ bí mật cốt lõi, mà sở dĩ hơn hai mươi năm trước bị chỉ dẫn tới hầm đất trôi nổi cũng là có nguyên nhân.”
Đang nói thì ngoài cổng có tiếng người, theo hướng nhìn sang, một người mặc áo tơi đội nón lá đi tới.
Trang phục tránh mưa kiểu cũ này chỉ ở những thôn trại vùng sâu vùng xa mới còn sử dụng, Giang Luyện còn tưởng là người bản địa, mãi đến khi người nọ đứng dưới mái hiên che mưa, cởi nón lá xuống, để lộ ra mái tóc dài mềm mượt, Giang Luyện mới nhận ra đó là Mạnh Thiên Tư.
Cô dựng cái nón vào chân tường rồi cởi áo tơi, giũ nước xong treo lên mặt tường, lúc xoay nghiêng người, Giang Luyện trông thấy cô đeo trên lưng một cái ống đựng tranh đan bằng mây.
Hắn cười chào cô: “Tôi tưởng cô còn đang ngủ chứ, hóa ra dậy sớm vậy.”
Lại chỉ lên bàn: “Ăn chút không? Đều là vừa mới dọn xong, rất tươi, cũng còn nóng.”
Mạnh Thiên Tư lắc đầu: “Ăn rồi, tôi dậy bận việc từ sáng sớm… Cái này, cái này ngon này…”
Cô chỉ vào đĩa bỏng gạo trong tay Giang Luyện, không nhịn được thò tay nhón một nhúm bỏ vào miệng, bỏng gạo là đồ chiên nên tay cô dính dầu theo, cô chẳng buồn quan tâm, đang lơ đãng thì Giang Luyện đưa khăn giấy cho cô, lạy đẩy bàn, kéo ghế qua: “Ngồi xuống ăn.”
Kể cũng lạ, cô thật sự đã ăn rồi, vốn cũng không muốn ăn, nhưng nghe hắn nói vậy lại rất tự nhiên ngồi xuống, lau tay, liếc mắt thấy Giang Luyện đang lấy một cái bát nhỏ múc cháo bột cho cô, lại nhắc hắn: “Múc ít thôi, tôi ăn rồi.”
Giang Luyện vốn đang múc một muôi đầy, nghe cô nói vậy lại đổ bớt đi một chút, thuận miệng hỏi: “Bận gì thế?”
Hắn vừa hỏi xong, Mạnh Thiên Tư đã hơi cụt hứng.
***
Cô đi xem thi thể của Diêm La trước tiên, trong lòng vẫn còn cất chút mong đợi vào chuyện “Diêm La sinh Diêm La”, nhưng một ngày một đêm trôi qua, tiết trời cũng chẳng mát mẻ gì, thi thể kia đã bắt đầu mục rữa khiến người ta buồn nôn.
Cô ỉu xìu cầm thìa khuấy khuấy cháo bột: “Nói thế nào đây, đạo lý đều biết cả, bánh kem đã đổ rồi thì đừng để ý đến nó nữa – nhưng cứ nghĩ tới là lại sầu muốn chết, nếu Diêm La còn sống thì chúng ta đỡ bao nhiêu công đi đường vòng.”
Một kho tàng lớn như Diêm la vậy mà cứ thế vuột mất.
Thần Côn lau miệng: “Cô Mạnh, sao cô toàn để tâm mấy chuyện vụn vặt thế, lời tôi nói tiếp đây hẳn là có thể khiến dễ chịu hơn chút: Giá trị lớn nhất của Diêm La là ông ta biết tung tích của cái rương và Đoàn tiểu thư – nhưng cái rương ở đâu thực ra không khó tìm, Tiểu Luyện Luyện nói có thể cho cô Huống đi Côn Lôn với tôi, tôi rất có lòng tin với máu của cô ấy.”
“Còn về những mặt khác, những gì Diêm La biết phỏng chừng còn ít hơn chúng ta ấy chứ.”
Mạnh Thiên Tư ngạc nhiên: “Là sao?”
Thần Côn nói: “Cô suy nghĩ theo góc độ toàn cục thì sẽ hiểu, một cái rương và đồ vật đựng bên trong bị dỡ ra chia năm xẻ bảy, do những người khác nhau mang đi – nhà họ Huống chỉ giữ một cái rương trống mà thôi, cùng lắm chỉ là một nhánh, mà tất cả manh mối của Diêm La đều đến từ việc giải mã cái nhánh này, ông ta có thể biết được bao nhiêu chứ?”
Giang Luyện gật đầu: “Tay Diêm La này vừa tham tài hám lợi vừa tiếc mạng, ông ta bỏ nhà chạy trốn lại mang theo cái rương, rồi không quản ngàn dặm xa xôi đi Côn Lôn, mục đích hẳn là rất rõ ràng, chính là để tìm được thai kỳ lân gì đó, ăn vào cầu trường sinh.”
Nói tới đây, hắn thò ngón tay ra hứng chút nước mưa rồi vẽ lên mặt bàn một hình tròn có tâm, rồi lại vẽ một mũi tên nhắm thẳng vào tâm: “Diêm La hẳn là từ một điểm cắt vào chuyện này, tình cờ tới gần được bí mật lớn nhất, nhưng ông ta cũng không có ý thức này, từ đầu tới cuối, cái ông ta biết được chỉ là một đường thẳng này, nhưng chúng ta bây giờ chí ít hợp lại cũng ra được một phần của hình tròn.”
Thế nên có sầu trời sầu đất cũng vô dụng, còn chẳng bằng ăn cho thỏa thích một bữa đi, Mạnh Thiên Tư cười rộ: “Nếu Diêm La không biết nhiều đến thế thì tôi thoải mái rồi.”
Giang Luyện chỉ chỉ ống tranh trên lưng cô: “Đây là cái gì?”
Lúc này Mạnh Thiên Tư mới nhớ ra trên lưng mình đang đeo đồ, cô cởi dây đeo xuống: “Định điều bản đồ núi tới xem, nhưng nơi giữ bản đồ núi hơi xa, nhất thời không thể chuyển tới được, tôi bèn bảo người ta gửi bản điện tử tới, đồng thời bảo họ treo bản đồ lên đầu đấy, châm mắt lửa nhận hình đọc bản đồ livestream cho tôi xem.”
Cô mở nắp ống tranh, rút tờ giấy bên trong ra: “Đây là in ra, bản đồ núi của chúng tôi có sổ ghi, tức là giống như sổ ghi đăng ký mượn sách ở thư viện ấy, ai điều bản đồ núi khi nào đều có ghi chép lại, mấy năm trước là viết tay, hiện giờ cũng có thể tra trên bản điện tử.”
“Còn nhớ Diêm La nói ông ta tìm được mảnh vụn xương rồng ở Trấn Long Sơn không? Tôi vốn định kiểm tra trọng điểm bản đồ Trấn Long Sơn, kết quả vô tình mở sổ ghi ra, phát hiện năm đó cụ Đoàn nhà tôi thăm xã Năm Trăm Lộng xong đã từng điều bản đồ núi Phượng Hoàng Sơn ra xem.”
Nói tới đây, cô trải tờ giấy in khổ A3 ra, đưa tay chỉ vào một chỗ: “Xem chỗ này.”
Hình vẽ bản đồ núi cũng không có gì hiếm lạ, đơn giản chỉ là đủ loại đường nét dáng núi, cái Mạnh Thiên Tư muốn cho họ nhìn là dòng chú giải đề rõ viết vào năm một chín bảy lăm.
Trong Mắt Phải Phượng Hoàng, phượng hoàng sống sẽ bay ra.
Thần Côn giật nảy mình: “Mắt phải phượng hoàng còn có thể sinh ra phượng hoàng? Phượng hoàng sinh sản tự thể qua mắt à?”
Mạnh Thiên Tư dở khóc dở cười: “Không phải, trong dãy Phượng Hoàng Sơn có một đỉnh núi tên là Mắt Phải Phượng Hoàng.”
Rơi như thế nào? Rơi mạnh từ trên cao xuống ư? Hèn chi khắp nơi rung chuyển, mặt đất cũng nghiêng ngả.
Mạnh Thiên Tư rất muốn biết cảnh tượng đó như thế nào, nghe người ta miêu tả lại thôi cũng được, nhưng không thể ép Thần Côn về nằm mơ tiếp được – Giấc mơ của Thần Côn còn quý giá hơn nước suối mùa hạn nữa, bao nhiêu ngày như vậy mới được một hai hồi.
Cô ôm nỗi lòng phiền muộn khôn tả, ngả đầu vào gối, từ từ thiếp đi.
Đến nửa đêm, nghe thấy tiếng Giang Luyện gọi mình, Mạnh Thiên Tư mơ màng mở mắt, chỉ cảm thấy trên mặt lấm chấm cảm giác buốt lạnh, lại nghe Giang Luyện nhẹ nhàng nói: “Thiên Tư, mưa rồi, về phòng ngủ thôi.”
Cô ngây ngô ừ một tiếng, dùng chân quờ quạng tìm giày, mê man về phòng, vừa tới giường đã nằm vật xuống.
Sáng sớm hôm sau, bị tiếng mưa rơi dày đặc đánh thức, xuyên qua khung cửa sổ dán giấy hoa họa tiết có thể trông thấy từng tia từng tia mưa lao xuống, mưa đã lớn hơn từ đêm qua.
Mạnh Thiên Tư nằm một lúc mới nhận ra âm thanh không đúng, trong tiếng mưa còn lẫn tiếng điện thoại đổ chuông, cô vươn tay quờ quạng bốn phía, lấy tới trước mặt, vừa nhìn đã ngồi bật dậy, hết sạch buồn ngủ.
Người gọi video tới là Cao Kinh Hồng.
Mạnh Thiên Tư vội vàng vuốt tóc rồi ấn nhận cuộc gọi, trên màn hình hiện lên khuôn mặt Cao Kinh Hồng, hai mắt sưng vù, tóc tai cũng có phần mất trật tự, xem cảnh nền, bà đang dựa người trên giường.
Thì ra me lớn cũng có lúc không chú ý tới dáng vẻ, Mạnh Thiên Tư thầm oán trách u năm trước, cảm thấy là do Thù Bích Ảnh chuyển lời không đủ uyển chuyển, nhưng nghĩ lại, me lớn và cụ Đoàn tình như mẹ con, có chuyển lời uyển chuyển hơn nữa cũng khó tránh khỏi đau lòng một trận mãnh liệt.
Cao Kinh Hồng lúc này không giống một bậc trưởng lão xử sự thỏa đáng mà ngược lại, giống một đứa trẻ không biết phải làm sao, vừa mở miệng đã hỏi cô: “Bé Tư, me Đoàn có khi nào đã phơi thây nơi đất hoang không?”
Mạnh Thiên Tư không đáp.
Có thể lắm, cô cảm thấy là vậy, người như Diêm La, giết người rồi còn có thể hảo tâm giúp đỡ chôn cất tử tế cho sao?
Chỉ là không thể nói thẳng như vậy được.
Hốc mắt Cao Kinh Hồng đỏ hoe: “Đêm qua me mơ thấy me Đoàn, bà nói bà chết không được yên ổn, trên không chạm trời dưới không chạm đất, mỗi ngày đều rất mệt mỏi, rất khổ cực…”
Mạnh Thiên Tư nói: “Me lớn, đó là do ban ngày me nghĩ nhiều quá nên đêm về ngủ mơ thôi, là me quá lo âu, đừng cho là thật.”
Cao Kinh Hồng hỏi một đằng nói một nẻo: “Sáng nay me đã bảo Liễu thư nhi tìm trạm non quê đầu Côn Lôn, từ giờ trở đi phải lục soát từng tấc núi kiểu trải thảm, me cứ nghĩ tới me Đoàn chết cũng không được xuống mồ là lại…”
Còn chưa dứt lời, chợt khóc nức lên.
Trước nay Mạnh Thiên Tư đều không ngờ rằng Cao Kinh Hồng có thể khóc – me lớn cùng lắm cũng chỉ thương cảm, thở dài một hơi thanh nhã, đến tư thái nhíu mày cũng vừa đúng.
Cô sững người ngồi đó, không biết phải an ủi thế nào, hối hận vì đã nhận cuộc gọi này, không nhận sẽ không phải thấy me lớn suy sụp, lại chợt cảm thấy, những người mà mình vẫn luôn ỷ lại này thực ra cũng không hề cứng rắn như sắt thép, có đôi lúc, họ sẽ cần cô dìu đỡ.
Cũng may, Liễu thư nhi nhanh chóng chạy tới trước mặt, vội vàng đỡ Cao Kinh Hồng nằm xuống: “Ôi chị Hồng, thân thể mình mình lại không biết sao, không thể chịu khổ như thế đâu…”
Mạnh Thiên Tư lặng lẽ ấn cúp máy.
Lặng người một lát, cô lại gọi cho Lộ Tam Minh, phân phó y mau chóng đưa bản đồ núi khu vực này tới cho cô.
***
Lúc Giang Luyện rời giường, Tì Hưu đã thu xếp người làm bữa sáng, đang bày chiếc bàn nhỏ hình vuông dưới mái hiên che mưa, đặt vài cái ghế xếp nhỏ, còn hỏi là ăn mì gạo hay ăn cháo bột. Sáng sớm, Giang Luyện không muốn ăn cái gì vị quá tạp, bèn xin một bát trà dầu, Thần Côn đang không biết chọn sao, nghe hắn lấy trà dầu cũng bắt chước theo.
Rửa mặt xong đi qua mới nhận ra, thà ăn mì gạo còn hơn: cháo bột nấu quá cầu kỳ, cháo nấu bằng nước xương, bên cạnh còn đặt thêm một cái đĩa nhỏ có hành tươi, rau thơm, bỏng gạo, quả giòn, lạc chiên bơ, còn có cá thái miếng hình bướm cắt nát đến độ tróc cả da – đây có phải cháo bột đâu, sắp thành nguyên nồi lẩu tới nơi rồi.
Cửa phòng Mạnh Thiên Tư đóng kín, đại khái là còn chưa thức giấc.
Mưa trên mái hiên nhỏ giọt xuống, trên bàn ăn đậm đà hương sắc, dùng bữa trong hoàn cảnh này cũng thật tuyệt vời.
Giang Luyện bận trộn bát cháo bột của mình, biết không có hi vọng gì, song vẫn hỏi Thần Côn: “Đêm qua…có mơ thêm được gì nữa không?”
Thần Côn liếc xéo hắn: “Tiểu Luyện Luyện, cậu trông mong tôi mơ ra kết cục luôn đấy hả?”
Giang Luyện nói: “Vậy là tốt nhất, nếu có thể làm biếng, ai đôn đáo làm gì.”
Cháo bột nóng bỏng miệng, nhất thời không ăn ngay được, đại khái nhìn cháo trong bát cũng giông giống nước trong hồ, khiến Thần Côn nhớ tới chuyện ma nước: “Này, Tiểu Luyện Luyện, ma nước có mỗi ba họ thôi.”
Đúng vậy, người ta còn tự xưng là “ba họ ma nước” cơ mà, Giang Luyện ăn một miếng cháo: “Ba họ Đinh, Khương, Dịch, rất dễ nhớ.”
“Vậy cậu có cảm thấy ba cái họ này rất đáng nghiền ngẫm không?”
Nghiền ngẫm á? Giang Luyện múc một thìa bỏng gạo bỏ vào miệng, bỏng gạo ở đây thực ra không phải là bỏng mà là gạo nếp chưng chín phơi khô rồi chiên dầu, giòn rụm thơm ngon, nhai rất sướng răng: “Không phải đều có trong Bách gia tính à?”
Thần Côn khinh thường hắn: “Khắp thiên hạ thiếu gì người họ Đinh, Khương, Dịch, thông thường có rất nhiều nguồn gốc, tối qua tôi tra kỹ càng nguồn gốc của ba họ này, phát hiện ra trong đó có ngụ ý.”
Giang Luyện rút khăn giấy trên bàn lau miệng, tạm dừng ăn: “Chú nói đi.”
Phối hợp như vậy làm Thần Côn có cảm giác mình rất được coi trọng, nảy sinh cảm giác thành tựu một cách tự nhiên: “Họ Dịch (易), cậu tách thử chữ này ra xem, bên trên là chữ ‘Nhật (日)’, bên dưới là một chữ ‘Nguyệt (月)’ dị hình, theo truyền thuyết, Hoàng Đế phỏng theo hình dạng nhật nguyệt để tạo nên ‘Dịch’, họ này là hậu duệ của Hoàng Đế.”
“Họ Khương vốn xuất thân từ Thần Nông thị, vì Viêm Đế sống bên sông Khương nên lấy tên sông làm họ.”
Nguồn gốc có vẻ không nhỏ, Giang Luyện trầm ngâm: “Vậy họ Đinh thì sao?”
“Họ Đinh thì không trực tiếp như vậy, nhưng có một hệ họ Đinh bắt nguồn từ họ Khương, trong sách ‘Tính thị’ viết là ‘Hệ thừa Khương’, nói cách khác là họ Khương tách ra một chi, từ đó về sau mang họ Đinh – nếu họ Đinh của ba họ ma nước bây giờ là tách từ họ Khương ra thì ba họ ma nước đều hoàn toàn có nguồn gốc từ Viêm Hoàng, hơn nữa…”
Nói tới đây, lão hạ giọng: “Cậu có nhận ra là ba họ này rất khép kín, không thông gia với họ khác không?”
Giang Luyện ngạc nhiên: “Đâu có, cô gái tên Dịch Táp trong video kia có bạn trai mà, không phải là họ Tông à, tên là Tông Hàng.”
Thần Côn cáu: “Ý tôi là trước kia! Trước kia!”
Trước kia à, vậy thì đúng, Giang Luyện gật đầu.
Ba họ kết thông gia với nhau, bởi vậy nên đời sau đều không thoát khỏi ba họ này, càng khiến người ta trố mắt hơn là ba họ có thể kết nạp người ngoài, nhưng có hai điều kiện.
Một là người đó phải đổi họ.
Điều này chẳng hề gì, đổi cái họ thôi mà, cũng không cần thiết phải so đo, chỉ là chuyện vô thưởng vô phạt.
Hai là người đó phải tuyệt hậu.
Nói cách khác, một khi anh vào ba họ thì cả đời đừng mong lấy vợ sinh con, không được có đời sau – điều này rất tệ, phải biết rằng quan niệm truyền thống của người Trung Quốc là “Tội bất hiếu có ba cái, không có đời sau là lớn nhất”.
Bởi vậy nên hai điều kiện này kết hợp với nhau rồi, hàm ý ra sao không cần nói cũng biết, đó chính là: Không có cửa câu, chúng tôi không kết nạp họ khác.
Giang Luyện lẩm bẩm: “Cũng may mà mỗi nhánh của ba họ đều đông người, phạm vi lựa chọn để kết hôn lớn, chứ nếu ít người hơn mà lại kết hôn họ hàng gần thì qua qua lại lại cũng…”
Thần Côn cảm thấy tầm mắt hắn quá hạn hẹp: “Một gia tộc thần bí như vậy, cậu cho rằng họ sẽ chịu mấy cái kết hôn họ hàng gần hay tuyệt tự gì đó hạn chế sao? Đó là cậu chưa từng nghe đến nhà họ Thịnh giữ chuông…”
Lão nhận ra mình lạc đề, bèn quay lại chủ đề chính: “Ma nước làm vậy, cậu có nhìn ra lý lẽ bên trong không?”
Không, Giang Luyện gắng thử vận may: “Chứng tỏ gia quy nhà họ rất nghiêm?”
Thần Côn thở dài: “Tiểu Luyện Luyện, tôi đúng là đánh giá trí thông minh của cậu quá cao rồi. Ngoài xem biểu hiện bên ngoài của toàn cục ra, cậu phải nhìn xuyên vào bản chất hiện tượng nữa: Bên ngoài biểu hiện họ rất khép kín, gia quy nghiêm khắc, nhưng nghĩ sâu vào trong, cậu không cảm thấy là họ đang giữ gìn huyết mạch…thuần khiết sao?”
Trong lòng Giang Luyện đánh thịch một tiếng.
Đúng vậy, ba họ Đinh, Khương, Dịch thông gia lẫn nhau, quan hệ huyết thống thân thích mấy ngàn năm đều chỉ qua lại trong nội bộ ba họ, vất vả mãi mới kết nạp thêm họ khác vào, lại không cho phép có con nối dõi, nói cách khác, huyết mạch sẽ không bao giờ bị “ô nhiễm”.
Thần Côn bổ sung: “Cậu nhìn lại quỷ non xem, quỷ non không giống vậy, mấy ngày nay chúng ta gặp được đủ các họ Mạnh, Liễu, Thẩm, Lộ… Tôi hoài nghi liệt kê hết các họ trong quỷ non chắc đủ cả một bộ Bách gia tính ấy chứ. Ai cổ xưa hơn, thuần khiết hơn, thể chất và huyết mạch của ai gần với tổ tông khi xưa hơn, không phải là vừa thấy đã ra à? Thế nên, ma nước khép kín như vậy sở dĩ là để bảo vệ bí mật cốt lõi, mà sở dĩ hơn hai mươi năm trước bị chỉ dẫn tới hầm đất trôi nổi cũng là có nguyên nhân.”
Đang nói thì ngoài cổng có tiếng người, theo hướng nhìn sang, một người mặc áo tơi đội nón lá đi tới.
Trang phục tránh mưa kiểu cũ này chỉ ở những thôn trại vùng sâu vùng xa mới còn sử dụng, Giang Luyện còn tưởng là người bản địa, mãi đến khi người nọ đứng dưới mái hiên che mưa, cởi nón lá xuống, để lộ ra mái tóc dài mềm mượt, Giang Luyện mới nhận ra đó là Mạnh Thiên Tư.
Cô dựng cái nón vào chân tường rồi cởi áo tơi, giũ nước xong treo lên mặt tường, lúc xoay nghiêng người, Giang Luyện trông thấy cô đeo trên lưng một cái ống đựng tranh đan bằng mây.
Hắn cười chào cô: “Tôi tưởng cô còn đang ngủ chứ, hóa ra dậy sớm vậy.”
Lại chỉ lên bàn: “Ăn chút không? Đều là vừa mới dọn xong, rất tươi, cũng còn nóng.”
Mạnh Thiên Tư lắc đầu: “Ăn rồi, tôi dậy bận việc từ sáng sớm… Cái này, cái này ngon này…”
Cô chỉ vào đĩa bỏng gạo trong tay Giang Luyện, không nhịn được thò tay nhón một nhúm bỏ vào miệng, bỏng gạo là đồ chiên nên tay cô dính dầu theo, cô chẳng buồn quan tâm, đang lơ đãng thì Giang Luyện đưa khăn giấy cho cô, lạy đẩy bàn, kéo ghế qua: “Ngồi xuống ăn.”
Kể cũng lạ, cô thật sự đã ăn rồi, vốn cũng không muốn ăn, nhưng nghe hắn nói vậy lại rất tự nhiên ngồi xuống, lau tay, liếc mắt thấy Giang Luyện đang lấy một cái bát nhỏ múc cháo bột cho cô, lại nhắc hắn: “Múc ít thôi, tôi ăn rồi.”
Giang Luyện vốn đang múc một muôi đầy, nghe cô nói vậy lại đổ bớt đi một chút, thuận miệng hỏi: “Bận gì thế?”
Hắn vừa hỏi xong, Mạnh Thiên Tư đã hơi cụt hứng.
***
Cô đi xem thi thể của Diêm La trước tiên, trong lòng vẫn còn cất chút mong đợi vào chuyện “Diêm La sinh Diêm La”, nhưng một ngày một đêm trôi qua, tiết trời cũng chẳng mát mẻ gì, thi thể kia đã bắt đầu mục rữa khiến người ta buồn nôn.
Cô ỉu xìu cầm thìa khuấy khuấy cháo bột: “Nói thế nào đây, đạo lý đều biết cả, bánh kem đã đổ rồi thì đừng để ý đến nó nữa – nhưng cứ nghĩ tới là lại sầu muốn chết, nếu Diêm La còn sống thì chúng ta đỡ bao nhiêu công đi đường vòng.”
Một kho tàng lớn như Diêm la vậy mà cứ thế vuột mất.
Thần Côn lau miệng: “Cô Mạnh, sao cô toàn để tâm mấy chuyện vụn vặt thế, lời tôi nói tiếp đây hẳn là có thể khiến dễ chịu hơn chút: Giá trị lớn nhất của Diêm La là ông ta biết tung tích của cái rương và Đoàn tiểu thư – nhưng cái rương ở đâu thực ra không khó tìm, Tiểu Luyện Luyện nói có thể cho cô Huống đi Côn Lôn với tôi, tôi rất có lòng tin với máu của cô ấy.”
“Còn về những mặt khác, những gì Diêm La biết phỏng chừng còn ít hơn chúng ta ấy chứ.”
Mạnh Thiên Tư ngạc nhiên: “Là sao?”
Thần Côn nói: “Cô suy nghĩ theo góc độ toàn cục thì sẽ hiểu, một cái rương và đồ vật đựng bên trong bị dỡ ra chia năm xẻ bảy, do những người khác nhau mang đi – nhà họ Huống chỉ giữ một cái rương trống mà thôi, cùng lắm chỉ là một nhánh, mà tất cả manh mối của Diêm La đều đến từ việc giải mã cái nhánh này, ông ta có thể biết được bao nhiêu chứ?”
Giang Luyện gật đầu: “Tay Diêm La này vừa tham tài hám lợi vừa tiếc mạng, ông ta bỏ nhà chạy trốn lại mang theo cái rương, rồi không quản ngàn dặm xa xôi đi Côn Lôn, mục đích hẳn là rất rõ ràng, chính là để tìm được thai kỳ lân gì đó, ăn vào cầu trường sinh.”
Nói tới đây, hắn thò ngón tay ra hứng chút nước mưa rồi vẽ lên mặt bàn một hình tròn có tâm, rồi lại vẽ một mũi tên nhắm thẳng vào tâm: “Diêm La hẳn là từ một điểm cắt vào chuyện này, tình cờ tới gần được bí mật lớn nhất, nhưng ông ta cũng không có ý thức này, từ đầu tới cuối, cái ông ta biết được chỉ là một đường thẳng này, nhưng chúng ta bây giờ chí ít hợp lại cũng ra được một phần của hình tròn.”
Thế nên có sầu trời sầu đất cũng vô dụng, còn chẳng bằng ăn cho thỏa thích một bữa đi, Mạnh Thiên Tư cười rộ: “Nếu Diêm La không biết nhiều đến thế thì tôi thoải mái rồi.”
Giang Luyện chỉ chỉ ống tranh trên lưng cô: “Đây là cái gì?”
Lúc này Mạnh Thiên Tư mới nhớ ra trên lưng mình đang đeo đồ, cô cởi dây đeo xuống: “Định điều bản đồ núi tới xem, nhưng nơi giữ bản đồ núi hơi xa, nhất thời không thể chuyển tới được, tôi bèn bảo người ta gửi bản điện tử tới, đồng thời bảo họ treo bản đồ lên đầu đấy, châm mắt lửa nhận hình đọc bản đồ livestream cho tôi xem.”
Cô mở nắp ống tranh, rút tờ giấy bên trong ra: “Đây là in ra, bản đồ núi của chúng tôi có sổ ghi, tức là giống như sổ ghi đăng ký mượn sách ở thư viện ấy, ai điều bản đồ núi khi nào đều có ghi chép lại, mấy năm trước là viết tay, hiện giờ cũng có thể tra trên bản điện tử.”
“Còn nhớ Diêm La nói ông ta tìm được mảnh vụn xương rồng ở Trấn Long Sơn không? Tôi vốn định kiểm tra trọng điểm bản đồ Trấn Long Sơn, kết quả vô tình mở sổ ghi ra, phát hiện năm đó cụ Đoàn nhà tôi thăm xã Năm Trăm Lộng xong đã từng điều bản đồ núi Phượng Hoàng Sơn ra xem.”
Nói tới đây, cô trải tờ giấy in khổ A3 ra, đưa tay chỉ vào một chỗ: “Xem chỗ này.”
Hình vẽ bản đồ núi cũng không có gì hiếm lạ, đơn giản chỉ là đủ loại đường nét dáng núi, cái Mạnh Thiên Tư muốn cho họ nhìn là dòng chú giải đề rõ viết vào năm một chín bảy lăm.
Trong Mắt Phải Phượng Hoàng, phượng hoàng sống sẽ bay ra.
Thần Côn giật nảy mình: “Mắt phải phượng hoàng còn có thể sinh ra phượng hoàng? Phượng hoàng sinh sản tự thể qua mắt à?”
Mạnh Thiên Tư dở khóc dở cười: “Không phải, trong dãy Phượng Hoàng Sơn có một đỉnh núi tên là Mắt Phải Phượng Hoàng.”