Xương Rồng Đốt Rương - Trang 4
Quyển 2 - Chương 1
Hôm nay trời không mưa, nhưng uy lực sót lại từ trận mưa đêm qua thì vẫn còn, đường đi lại hẻo lánh nhỏ hẹp, dưới chân lầy lội đã đành, tán cây trên cao còn thường xuyên nhỏ nước xuống, đi hơn một tiếng cũng chẳng khác gì bị dính mưa.
Lão Gàn dẫn đường dừng bước, đưa tay đẩy lùm cây rậm rạp trước mặt ra.
Từ góc độ này có thể trông thấy trại Bát Kháng trong thung lũng bên dưới – dưới ánh hoàng hôn, hơi nước trong núi bốc lên ngùn ngụt, đánh mắt sang nhìn, từng cụm từng cụm hơi nước trắng xóa trôi nổi trên ngọn cây hoặc áp sát vào sau nhà, trong không gian yên ắng hiện lên vẻ cổ quái, còn có một vẻ đẹp tĩnh lặng kỳ dị.
Lão Gàn chỉ tay về một hướng: “Kia, ở kia, tầng hai, ba đèn còn sáng kìa, hẳn là người đều ở đây cả.”
Đều ở đây thì tốt rồi, Mạnh Thiên Tư lười qua xem – dù sao cũng có rất nhiều con mắt xem giúp cô – cô ngồi xuống một tảng đá ẩm ướt, vặt hai cái lá cây kiên nhẫn lau bùn bám trên ủng, Tân Từ vội lấy khăn giấy ra giúp đỡ.
Mạnh Kình Tùng nhíu mày nhìn ánh đèn nhà sàn, khoảng cách hơi xa nên không nhìn rõ được tình huống trong nhà, dù có dùng ống nhòm cũng không xuyên qua được rèm che kín cửa của người ta: Đèn sáng không có nghĩa là người đang ở đây, lỡ người ta ra ngoài rồi thì sao, gióng trống khua chiêng xông tới rất có thể sẽ đánh rắn động cỏ.
Liễu Quan Quốc cũng nghĩ như vậy: “Hay là để Lưu Thịnh đi thăm dò trước?”
Chuyến làm việc này, y đã để Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ mồm mép lém lỉnh ở lại giữ chân Thần Côn, chọn Lưu Thịnh và Khưu Đống đi theo. Trong hai người này, Khưu Đống chín chắn trầm tĩnh, Lưu Thịnh linh hoạt nhạy bén, rất rành việc ném đá dò đường.
Mạnh Kình Tùng quay đầu lại nhìn Mạnh Thiên Tư, đợi cô chỉ thị, ánh mắt Mạnh Thiên Tư lại rơi xuống lão Gàn đang khoanh tay đứng một bên: “Ngộ nhỡ phải ra tay… Thân thích nhà ông, chúng tôi có thể ra tay được mấy phần?”
***
Kiểu hoa văn của tấm bùa kia dù có dí thẳng vào mắt thì Mạnh Thiên Tư cũng chẳng nhận ra được, song nếu Tân Từ đã nói chắc như đinh đóng cột vậy rồi thì quá nửa là không sai, cô lập tức bảo Liễu Quan Quốc tìm lão Gàn qua.
Lão Gàn cũng chẳng giấu giếm, cứ đúng sự thật mà nói thẳng tiền căn hậu quả ra.
Nói là hơn một tháng trước có hai nam một nữ vào trại Bát Kháng, tìm thẳng đến lão, tự xưng là thân thích bên ông tư nhà lão.
Lão Gàn đúng là có ông tư thật, lúc người này rời khỏi trại Bát Kháng, cha lão Gàn còn chưa lấy được vợ – trước giải phóng, trại Bát Kháng này cũng từng là một trại lớn mấy trăm nhân khẩu, có điều cuộc sống trong núi khó khăn, lại gặp phải thiên tai, binh tai, người trong trại dần ra ngoài kiếm ăn, có người vào thành phố, có người xuống nam, còn có người ra nước ngoài, sống tốt thì ở luôn bên ngoài, sống không tốt có lẽ cũng ở luôn bên ngoài, nói chung là về cơ bản không ai quay lại, cũng không gửi thư báo tin gì về, sao lão biết được ông tư kia lấy ai, sinh ra ai, lại mở rộng ra bao nhiêu chi nhánh thân thích khác họ chứ.
Mình chỉ là một lão già cô quả, khả năng người ta ngàn dặm xa xôi tới đây lừa gạt không lớn, hơn nữa ba người họ đều rất lịch sự lễ độ, nói đến chuyện của những thế hệ xa xôi trước cũng đều đúng cả – có rất nhiều chuyện chính bản thân lão Gàn còn chẳng rõ nữa là.
Bởi vậy nên hẳn là họ hàng xa thật.
Theo lời họ, ông cụ tuy được an táng bên ngoài nhưng đến lúc chết vẫn còn đau đáu nhớ về cố hương, lần này họ qua đây là muốn ở lại một khoảng thời gian, thay ông cụ thăm hết một vòng non nước nơi này, chụp vài bức ảnh, lượm lặt vài món đồ cũ khi trước, mang về coi như hoàn thành tâm nguyện người đã mất.
Được rồi, nghe cũng có lý, dù sao cũng là khách tha phương mà, lá rụng mà chẳng về được cội, tâm nguyện này có thể hiểu được, hơn nữa ba người còn chủ động gửi tiền cơm nước phòng trọ, lão Gàn càng cảm thấy toàn bộ chuyện này đều hợp tình hợp lý – nếu mình vẫn cứ nghi thần nghi quỷ thì thật quá nhỏ mọn hẹp hòi rồi.
Trong ba người, người đàn ông lớn tuổi nhất tên là Vi Bưu, ba mươi có lẻ, cao lớn vạm vỡ, tính tình tạm được, chỉ có điều tướng mạo hung dữ, lúc nào nhìn cũng như đang cáu bẳn với người ta, người đàn ông còn lại tên là Giang Luyện thì tương phản với y, trên mặt luôn mang theo nụ cười, ôn hòa nhã nhặn, tính tình cũng khiêm tốn lễ độ, người ít tuổi nhất là cô gái duy nhất, tên là Huống Mỹ Doanh, mới đâu hăm ba, hăm tư tuổi, mảnh mai yếu ớt, làm người rất văn nghệ, cứ rảnh rỗi là lại lấy máy ra hí hoáy chụp ảnh, hoặc là dựng bàn vẽ vẽ non vẽ nước, chỉ có điều sức khỏe không tốt, cứ dăm ba bữa lại trong người khó chịu một lần, ban ngày cũng sẽ ngủ tĩnh dưỡng, mà mỗi khi cô ngủ, Vi Bưu đều sẽ xuống nhà nhắc nhở lão Gàn “nhẹ chân nhẹ tay nhỏ giọng một chút”, hại lão Gàn lúc chặt thịt khô phải cẩn thận từng li từng tí nhay đi nhay lại lưỡi dao chẳng khác gì kéo cưa.
Ở chung được một khoảng thời gian rồi thì lão Gàn phát hiện ra hai chuyện kỳ quặc.
Một là trong ba người này, lão không phân biệt được ai là thủ lĩnh.
Theo lý thì hẳn là Vi Bưu mới phải, lớn tuổi nhất, cũng rất có tư thái cầm đầu, song y lại vâng lời Huống Mỹ Doanh răm rắp, ăn nói hành sự đều dè dặt cẩn thận, kiểu cẩn thận này, lão Gàn cảm thấy cũng không hoàn toàn là kiểu đàn ông muốn lấy lòng phụ nữ.
Vậy thì là Huống Mỹ Doanh à? Dường như cũng không phải, cô tựa hồ Giang Luyện bảo gì là nghe nấy, thỉnh thoảng có nổi cơn ương bướng thì cũng chỉ cần hai ba câu của Giang Luyện là khuyên xong.
Nhưng Vi Bưu lại chẳng chịu phục Giang Luyện bao giờ, thường xuyên châm chọc khinh thường hắn, đó giờ Giang Luyện vẫn luôn cười cười cho qua, chưa thấy hắn vặc lại bao giờ.
Ba người này thật sự giống như một vòng tuần hoàn khép kín.
Hai là, cậu chàng Giang Luyện này cứ gặp đêm mưa gió là lại ra ngoài.
Chuyến này họ tới vào đúng mùa mưa, trong núi nhiều mưa, hơn nữa phần lớn là mưa vào buổi tối, nhất là trước nửa đêm, cách năm ba ngày lại mưa một trận, nói khó nghe thì lấy gậy ra đuổi chó, chó cũng không muốn ra khỏi ổ chứ đừng nhắc tới người, vì sao Giang Luyện này lại toàn ra ngoài giữa lúc gió mạnh mưa to thế chứ? Dù trong núi có chôn tiền thì cũng nên đi đào lúc trời quang mây tạnh chứ.
Hơn nữa, có vài lần, lão Gàn nghe thấy động tĩnh, len lén nhìn ra ngoài qua cửa sổ, trông thấy Giang Luyện đeo balo lớn màu đen, kích cỡ đó có cho một người vào cũng không có vấn đề gì.
Cũng may lão Gàn trời sinh không phải người hiếu kỳ: Kệ đi, chỉ cần đám thân thích khác họ không biết thật giả này trả tiền ở trọ cơm nước đúng hạn, không gây sự, không làm liên lụy tới mình thì việc gì phải quản họ muốn làm gì chứ, họ ở đây cùng lắm một hai tháng là đi thôi, đến lúc đó anh đường đi đằng đường cầu đi đằng cầu, còn không phải là không dính dáng tới nhau nữa à? Cũng không thể vì ngẫu nhiên đường cầu giao nhau mà đi hỏi thăm cầu dài bao nhiêu đường xa lắm không, có mệt hay không được.
Chỉ là không ngờ, mong đợi này nói hỏng là hỏng ngay được, lúc quỷ non tìm tới vì hoa văn tấm bùa kia, lão đã biết không ổn rồi, ba người kia gây chuyện lớn rồi.
Cô Mạnh nhà quỷ non này là người giả bộ khách khí, có thể ra tay đến mấy thành sao đến lượt lão cho ý kiến chứ.
Sắc mặt lão Gàn ngây ra: “Một bên là họ hàng thân thích, một bên là bạn tốt, tôi không có bản lĩnh hòa giải, thiên vị ai cũng không thích hợp, các vị làm việc của các vị, tôi không hóng hớt, cũng không nghe ngóng, bao giờ có thể về nhà thì báo cho một tiếng là được.
Nói đoạn, tự mình dời ra ngoài cách xa mười mười mét, tìm một tảng đá đưa lưng về phía này ngồi xuống, lát sau, trước mặt bốc lên khói trắng, hẳn là châm thuốc lá miền núi.
Mạnh Thiên Tư cười cười: “Lão già này thú vị đấy.”
Lại gật đầu: “Một người đi thăm dò, hai người bọc đánh.”
Câu này tuy không phải là nói với mình nhưng cũng coi như gián tiếp phân phó, lần đầu tiên trong đợi nhận chỉ thị của lão đại, Lưu Thịnh rất hồi hộp, vội tròng cái áo quái tử vải xanh người trong núi thường mặc lên người, đưa tay cào cào tóc, lại xắn ống quần lên, bôi ít bùn lên ống giày, lúc này mới đeo balo, ho khan đi dọc theo con đường nhỏ xuống trại.
Liễu Quan Quốc và Khưu Đống thì nhanh chóng chui vào vạt rừng hai bên, trèo thẳng lên cây thoăn thoắt như khỉ, lại từ ngọn cẩn thận từng cây từng cây nhảy ra ngoài, vừa đi vừa điều chỉnh phương hướng, định bụng tạo thành một tam giác lớn với Lưu Thịnh đi phía trước, thu nhà sàn vào giữa – như vậy vừa có thể canh gác đề phòng, vừa có thể mở rộng hoặc thu nhỏ vòng vây bất cứ lúc nào, nhất cử lưỡng tiện.
Tân Từ chỉ hận mình chẳng có tài nghệ gì, không thể tham gia vào đó, hắn ngửa đầu nhìn cành lá trên cao lao xao dọc một đường ra xa, nghĩ sắp được xem cảnh bắt người hoành tráng, phấn khích đến độ giọng nói cũng biến đổi: “Thiên Tư, bắt được Giang Luyện kia thật rồi có phải cô sẽ lột da hắn ra không?”
Mạnh Thiên Tư nhặt lấy một viên sỏi, cẩn thận gạt bùn đất dính trên mép ủng đi, bên chân đọng thành một vũng nước nhỏ, phản chiếu rõ ràng hình ảnh cô đeo chụp mắt, cô nhìn mấy lượt, vậy mà lại cảm thấy tạo hình một mắt của mình nhìn cũng rất được.
Tân Từ quay lại nhìn cô: “Thiên Tư?”
Mạnh Thiên Tư dùng mũi ủng khuấy khuấy vũng nước: “Chuyện bao lớn đâu, đối nhân xử thế phải biết khoan dung, đừng hơi một tí là lột da chém giết.”
Mạnh Kình Tùng nghe mà khóe miệng giật giật: Vâng, cô khoan dung lắm ạ, phải biết rằng, tài khoản mạng xã hội của Mạnh Thiên Tư tên là “×2” (nhân 2), khi còn bé, mỗi lần Mạnh Kình Tùng đánh đổ kem của cô đều phải đền lại hai ly, bằng không nắp bồn cầu của y sẽ bị cô dùng bút đỏ viết đầy những lời hăm dọa độc địa truy cứu – lại nói, Mạnh Thiên Tư thực sự rất có năng khiếu mở công ty cho vay nặng lãi và đòi nợ thuê.
***
Bên kia, Lưu Thịnh đã xuống tới thung lũng, vừa đi vừa ngắt hoa bẻ cành cắm vào khe khóa kéo ba lô, rất có dáng vẻ một người miền núi nhàn hạ thoải mái.
Lúc tới gần nhà sàn, gã mở miệng gọi to: “Chú Gàn, chú Gàn, có nhà không? Là cháu đây!”
Gọi được hai tiếng, trên tầng ba có người ló ra, còn đưa tay làm động tác đè xuống, có vẻ như là bảo Lưu Thịnh nhỏ giọng chút. Bên này, Mạnh Kình Tùng giơ ống nhòm lên xem, có thể thấy được khá rõ, nói: “Vi Bưu ở đây.”
Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng, dùng viên sỏi vạch lên mặt đất một sọc ngang.
Một người.
Lưu Thịnh thấy Vi Bưu ra hiệu xong thì xoay người biến mất, biết là y xuống nhà, bèn đứng tại chỗ chờ, còn giả bộ gãi gãi đầu, hết nhìn đông lại nhìn tây, vẻ mặt khó hiểu.
Vi Bưu xuống dưới rất nhanh, bước chân lại rất nhẹ nhàng, thông thường, nhà sàn gỗ đều có dấu vết năm tháng, giẫm lên một cái là kẽo cà kẽo kẹt, nhưng cả đường y xuống đây, Lưu Thịnh gần như không nghe thấy một tiếng gỗ kêu nào lớn, điều này khiến gã sinh lòng cảnh giác: Người này nhìn thì thô kệch, song thân thủ chỉ sợ là không tệ, xem ra phải khéo léo, không thể liều mạng được.
Có điều, ngoài mặt hắn không để lộ ra, chỉ nghển cổ nhìn ra sau Vi Bưu: “Chú Gàn đâu…”
Giọng hơi lớn, Vi Bưu cuống quít dựng ngón trỏ lên xuỵt gã: “Nhỏ giọng, nhỏ giọng hộ với.”
Lưu Thịnh không hiểu ra sao, Vi Bưu hơi xấu hổ: “Em gái tôi bị ốm, đang ngủ, sợ làm ồn đến em ấy.”
Xem ra cô gái tên Huống Mỹ Doanh kia cũng ở đây, lòng bàn tay Lưu Thịnh rịn mồ hôi: trước khi xuất phát, Liễu Quan Quốc đã phân phó, lần này tới chủ yếu là để tìm đồ, xác định ba người kia có mặt ở đây hay không trước rồi hạ gục từng người bằng cách nào kiệm sức nhất là được, người không chạy, nhà ở đó, việc tìm đồ sẽ trở nên dễ dàng.
Gã rất phối hợp mà hạ giọng: “Chú Gàn đâu? Đã hẹn tôi tới xem vỏ mặt quỷ hun khói rồi cơ mà.”
Lão Gàn là na diện sư, tay nghề điêu khắc mặt nạ rước thần là do ông cha truyền lại, người Tương Tây thường gọi mặt nạ rước thần là “vỏ mặt quỷ” hoặc “vỏ mặt quỷ hun khói”, chính là gom vụn gỗ rơi xuống lúc điêu khắc mặt nạ vào chậu rồi châm lửa, đợi khói bốc lên thì hơ mặt nạ lên đó hun nướng, nghe nói làm vậy không những có thể chống mục nát mà còn có thể khiến khuôn mặt điêu khắc ra đẹp hơn, trở nên sinh động hơn, cơ hồ giống y như thật, có người xứ khác đùa cợt gọi làm vậy là “luộc đậu đun cả cây” – bây đã đục ông xuống thành phế liệu rồi còn muốn đốt ông đây lên hun khói cho vỏ mặt, vốn cùng một gốc rễ mà ra, hà tất phải đã phân biệt đẳng cấp lại còn hun nướng lẫn nhau thế.
Vi Bưu hoàn toàn không hiểu vỏ mặt quỷ hun khói là gì, cũng không có ý định hỏi thăm, chỉ muốn mau mau chóng chóng đuổi gã đi: “Có người mở tiệc mời khách, ông ấy lên huyện ăn cơm rồi, không nói cho anh biết à?”
Lưu Thịnh ồ một tiếng, nhíu mày lại như đang cẩn thận nghĩ lại xem có chuyện này không, lại quan sát Vi Bưu một lượt từ trên xuống dưới: “Nhớ ra rồi, anh là họ hàng thân thích trong thành phố của chú Gàn à?”
Vi Bưu không biết Lưu Thịnh lai lịch ra sao, nhưng nghe gã mở miệng gọi chú Gàn, đến chuyện “họ hàng thân thích trong thành phố” cũng biết, nghĩ chắc là người quen của lão Gàn, bèn gật đầu.
Lưu Thịnh cười toe toét, hết mình biểu diễn lòng nhiệt tình của người miền núi, hết hỏi han lại thăm hỏi, còn hợp thời giả bộ ngu ngốc chất phác, sau cùng một lần nữa nhìn chung quanh: “Không phải nói có ba người à, một anh chàng nữa đâu? Vào rừng đi dạo rồi à?”
Gã vô cùng niềm nở: “Trong rừng không yên bình lắm đâu, nghe nói bây giờ còn có cọp ngựa đó, hổ còn phải sợ nó nữa là.”
Vi Bưu phiền gã muốn chết, lại không tiện nối cáu: “Không phải, cũng…đang ngủ.”
Lưu Thịnh bất giác liếc lên ánh đèn tầng hai: Lão Gàn có nói rằng Giang Luyện trọ ở tầng hai – quái thật, trời còn chưa tối hẳn mà đã ngủ rồi à, lại còn ngủ để đèn nữa.
Không phải là ma cà rồng không thể ra nắng đâu chứ?
Lão Gàn dẫn đường dừng bước, đưa tay đẩy lùm cây rậm rạp trước mặt ra.
Từ góc độ này có thể trông thấy trại Bát Kháng trong thung lũng bên dưới – dưới ánh hoàng hôn, hơi nước trong núi bốc lên ngùn ngụt, đánh mắt sang nhìn, từng cụm từng cụm hơi nước trắng xóa trôi nổi trên ngọn cây hoặc áp sát vào sau nhà, trong không gian yên ắng hiện lên vẻ cổ quái, còn có một vẻ đẹp tĩnh lặng kỳ dị.
Lão Gàn chỉ tay về một hướng: “Kia, ở kia, tầng hai, ba đèn còn sáng kìa, hẳn là người đều ở đây cả.”
Đều ở đây thì tốt rồi, Mạnh Thiên Tư lười qua xem – dù sao cũng có rất nhiều con mắt xem giúp cô – cô ngồi xuống một tảng đá ẩm ướt, vặt hai cái lá cây kiên nhẫn lau bùn bám trên ủng, Tân Từ vội lấy khăn giấy ra giúp đỡ.
Mạnh Kình Tùng nhíu mày nhìn ánh đèn nhà sàn, khoảng cách hơi xa nên không nhìn rõ được tình huống trong nhà, dù có dùng ống nhòm cũng không xuyên qua được rèm che kín cửa của người ta: Đèn sáng không có nghĩa là người đang ở đây, lỡ người ta ra ngoài rồi thì sao, gióng trống khua chiêng xông tới rất có thể sẽ đánh rắn động cỏ.
Liễu Quan Quốc cũng nghĩ như vậy: “Hay là để Lưu Thịnh đi thăm dò trước?”
Chuyến làm việc này, y đã để Thẩm Bang và Thẩm Vạn Cổ mồm mép lém lỉnh ở lại giữ chân Thần Côn, chọn Lưu Thịnh và Khưu Đống đi theo. Trong hai người này, Khưu Đống chín chắn trầm tĩnh, Lưu Thịnh linh hoạt nhạy bén, rất rành việc ném đá dò đường.
Mạnh Kình Tùng quay đầu lại nhìn Mạnh Thiên Tư, đợi cô chỉ thị, ánh mắt Mạnh Thiên Tư lại rơi xuống lão Gàn đang khoanh tay đứng một bên: “Ngộ nhỡ phải ra tay… Thân thích nhà ông, chúng tôi có thể ra tay được mấy phần?”
***
Kiểu hoa văn của tấm bùa kia dù có dí thẳng vào mắt thì Mạnh Thiên Tư cũng chẳng nhận ra được, song nếu Tân Từ đã nói chắc như đinh đóng cột vậy rồi thì quá nửa là không sai, cô lập tức bảo Liễu Quan Quốc tìm lão Gàn qua.
Lão Gàn cũng chẳng giấu giếm, cứ đúng sự thật mà nói thẳng tiền căn hậu quả ra.
Nói là hơn một tháng trước có hai nam một nữ vào trại Bát Kháng, tìm thẳng đến lão, tự xưng là thân thích bên ông tư nhà lão.
Lão Gàn đúng là có ông tư thật, lúc người này rời khỏi trại Bát Kháng, cha lão Gàn còn chưa lấy được vợ – trước giải phóng, trại Bát Kháng này cũng từng là một trại lớn mấy trăm nhân khẩu, có điều cuộc sống trong núi khó khăn, lại gặp phải thiên tai, binh tai, người trong trại dần ra ngoài kiếm ăn, có người vào thành phố, có người xuống nam, còn có người ra nước ngoài, sống tốt thì ở luôn bên ngoài, sống không tốt có lẽ cũng ở luôn bên ngoài, nói chung là về cơ bản không ai quay lại, cũng không gửi thư báo tin gì về, sao lão biết được ông tư kia lấy ai, sinh ra ai, lại mở rộng ra bao nhiêu chi nhánh thân thích khác họ chứ.
Mình chỉ là một lão già cô quả, khả năng người ta ngàn dặm xa xôi tới đây lừa gạt không lớn, hơn nữa ba người họ đều rất lịch sự lễ độ, nói đến chuyện của những thế hệ xa xôi trước cũng đều đúng cả – có rất nhiều chuyện chính bản thân lão Gàn còn chẳng rõ nữa là.
Bởi vậy nên hẳn là họ hàng xa thật.
Theo lời họ, ông cụ tuy được an táng bên ngoài nhưng đến lúc chết vẫn còn đau đáu nhớ về cố hương, lần này họ qua đây là muốn ở lại một khoảng thời gian, thay ông cụ thăm hết một vòng non nước nơi này, chụp vài bức ảnh, lượm lặt vài món đồ cũ khi trước, mang về coi như hoàn thành tâm nguyện người đã mất.
Được rồi, nghe cũng có lý, dù sao cũng là khách tha phương mà, lá rụng mà chẳng về được cội, tâm nguyện này có thể hiểu được, hơn nữa ba người còn chủ động gửi tiền cơm nước phòng trọ, lão Gàn càng cảm thấy toàn bộ chuyện này đều hợp tình hợp lý – nếu mình vẫn cứ nghi thần nghi quỷ thì thật quá nhỏ mọn hẹp hòi rồi.
Trong ba người, người đàn ông lớn tuổi nhất tên là Vi Bưu, ba mươi có lẻ, cao lớn vạm vỡ, tính tình tạm được, chỉ có điều tướng mạo hung dữ, lúc nào nhìn cũng như đang cáu bẳn với người ta, người đàn ông còn lại tên là Giang Luyện thì tương phản với y, trên mặt luôn mang theo nụ cười, ôn hòa nhã nhặn, tính tình cũng khiêm tốn lễ độ, người ít tuổi nhất là cô gái duy nhất, tên là Huống Mỹ Doanh, mới đâu hăm ba, hăm tư tuổi, mảnh mai yếu ớt, làm người rất văn nghệ, cứ rảnh rỗi là lại lấy máy ra hí hoáy chụp ảnh, hoặc là dựng bàn vẽ vẽ non vẽ nước, chỉ có điều sức khỏe không tốt, cứ dăm ba bữa lại trong người khó chịu một lần, ban ngày cũng sẽ ngủ tĩnh dưỡng, mà mỗi khi cô ngủ, Vi Bưu đều sẽ xuống nhà nhắc nhở lão Gàn “nhẹ chân nhẹ tay nhỏ giọng một chút”, hại lão Gàn lúc chặt thịt khô phải cẩn thận từng li từng tí nhay đi nhay lại lưỡi dao chẳng khác gì kéo cưa.
Ở chung được một khoảng thời gian rồi thì lão Gàn phát hiện ra hai chuyện kỳ quặc.
Một là trong ba người này, lão không phân biệt được ai là thủ lĩnh.
Theo lý thì hẳn là Vi Bưu mới phải, lớn tuổi nhất, cũng rất có tư thái cầm đầu, song y lại vâng lời Huống Mỹ Doanh răm rắp, ăn nói hành sự đều dè dặt cẩn thận, kiểu cẩn thận này, lão Gàn cảm thấy cũng không hoàn toàn là kiểu đàn ông muốn lấy lòng phụ nữ.
Vậy thì là Huống Mỹ Doanh à? Dường như cũng không phải, cô tựa hồ Giang Luyện bảo gì là nghe nấy, thỉnh thoảng có nổi cơn ương bướng thì cũng chỉ cần hai ba câu của Giang Luyện là khuyên xong.
Nhưng Vi Bưu lại chẳng chịu phục Giang Luyện bao giờ, thường xuyên châm chọc khinh thường hắn, đó giờ Giang Luyện vẫn luôn cười cười cho qua, chưa thấy hắn vặc lại bao giờ.
Ba người này thật sự giống như một vòng tuần hoàn khép kín.
Hai là, cậu chàng Giang Luyện này cứ gặp đêm mưa gió là lại ra ngoài.
Chuyến này họ tới vào đúng mùa mưa, trong núi nhiều mưa, hơn nữa phần lớn là mưa vào buổi tối, nhất là trước nửa đêm, cách năm ba ngày lại mưa một trận, nói khó nghe thì lấy gậy ra đuổi chó, chó cũng không muốn ra khỏi ổ chứ đừng nhắc tới người, vì sao Giang Luyện này lại toàn ra ngoài giữa lúc gió mạnh mưa to thế chứ? Dù trong núi có chôn tiền thì cũng nên đi đào lúc trời quang mây tạnh chứ.
Hơn nữa, có vài lần, lão Gàn nghe thấy động tĩnh, len lén nhìn ra ngoài qua cửa sổ, trông thấy Giang Luyện đeo balo lớn màu đen, kích cỡ đó có cho một người vào cũng không có vấn đề gì.
Cũng may lão Gàn trời sinh không phải người hiếu kỳ: Kệ đi, chỉ cần đám thân thích khác họ không biết thật giả này trả tiền ở trọ cơm nước đúng hạn, không gây sự, không làm liên lụy tới mình thì việc gì phải quản họ muốn làm gì chứ, họ ở đây cùng lắm một hai tháng là đi thôi, đến lúc đó anh đường đi đằng đường cầu đi đằng cầu, còn không phải là không dính dáng tới nhau nữa à? Cũng không thể vì ngẫu nhiên đường cầu giao nhau mà đi hỏi thăm cầu dài bao nhiêu đường xa lắm không, có mệt hay không được.
Chỉ là không ngờ, mong đợi này nói hỏng là hỏng ngay được, lúc quỷ non tìm tới vì hoa văn tấm bùa kia, lão đã biết không ổn rồi, ba người kia gây chuyện lớn rồi.
Cô Mạnh nhà quỷ non này là người giả bộ khách khí, có thể ra tay đến mấy thành sao đến lượt lão cho ý kiến chứ.
Sắc mặt lão Gàn ngây ra: “Một bên là họ hàng thân thích, một bên là bạn tốt, tôi không có bản lĩnh hòa giải, thiên vị ai cũng không thích hợp, các vị làm việc của các vị, tôi không hóng hớt, cũng không nghe ngóng, bao giờ có thể về nhà thì báo cho một tiếng là được.
Nói đoạn, tự mình dời ra ngoài cách xa mười mười mét, tìm một tảng đá đưa lưng về phía này ngồi xuống, lát sau, trước mặt bốc lên khói trắng, hẳn là châm thuốc lá miền núi.
Mạnh Thiên Tư cười cười: “Lão già này thú vị đấy.”
Lại gật đầu: “Một người đi thăm dò, hai người bọc đánh.”
Câu này tuy không phải là nói với mình nhưng cũng coi như gián tiếp phân phó, lần đầu tiên trong đợi nhận chỉ thị của lão đại, Lưu Thịnh rất hồi hộp, vội tròng cái áo quái tử vải xanh người trong núi thường mặc lên người, đưa tay cào cào tóc, lại xắn ống quần lên, bôi ít bùn lên ống giày, lúc này mới đeo balo, ho khan đi dọc theo con đường nhỏ xuống trại.
Liễu Quan Quốc và Khưu Đống thì nhanh chóng chui vào vạt rừng hai bên, trèo thẳng lên cây thoăn thoắt như khỉ, lại từ ngọn cẩn thận từng cây từng cây nhảy ra ngoài, vừa đi vừa điều chỉnh phương hướng, định bụng tạo thành một tam giác lớn với Lưu Thịnh đi phía trước, thu nhà sàn vào giữa – như vậy vừa có thể canh gác đề phòng, vừa có thể mở rộng hoặc thu nhỏ vòng vây bất cứ lúc nào, nhất cử lưỡng tiện.
Tân Từ chỉ hận mình chẳng có tài nghệ gì, không thể tham gia vào đó, hắn ngửa đầu nhìn cành lá trên cao lao xao dọc một đường ra xa, nghĩ sắp được xem cảnh bắt người hoành tráng, phấn khích đến độ giọng nói cũng biến đổi: “Thiên Tư, bắt được Giang Luyện kia thật rồi có phải cô sẽ lột da hắn ra không?”
Mạnh Thiên Tư nhặt lấy một viên sỏi, cẩn thận gạt bùn đất dính trên mép ủng đi, bên chân đọng thành một vũng nước nhỏ, phản chiếu rõ ràng hình ảnh cô đeo chụp mắt, cô nhìn mấy lượt, vậy mà lại cảm thấy tạo hình một mắt của mình nhìn cũng rất được.
Tân Từ quay lại nhìn cô: “Thiên Tư?”
Mạnh Thiên Tư dùng mũi ủng khuấy khuấy vũng nước: “Chuyện bao lớn đâu, đối nhân xử thế phải biết khoan dung, đừng hơi một tí là lột da chém giết.”
Mạnh Kình Tùng nghe mà khóe miệng giật giật: Vâng, cô khoan dung lắm ạ, phải biết rằng, tài khoản mạng xã hội của Mạnh Thiên Tư tên là “×2” (nhân 2), khi còn bé, mỗi lần Mạnh Kình Tùng đánh đổ kem của cô đều phải đền lại hai ly, bằng không nắp bồn cầu của y sẽ bị cô dùng bút đỏ viết đầy những lời hăm dọa độc địa truy cứu – lại nói, Mạnh Thiên Tư thực sự rất có năng khiếu mở công ty cho vay nặng lãi và đòi nợ thuê.
***
Bên kia, Lưu Thịnh đã xuống tới thung lũng, vừa đi vừa ngắt hoa bẻ cành cắm vào khe khóa kéo ba lô, rất có dáng vẻ một người miền núi nhàn hạ thoải mái.
Lúc tới gần nhà sàn, gã mở miệng gọi to: “Chú Gàn, chú Gàn, có nhà không? Là cháu đây!”
Gọi được hai tiếng, trên tầng ba có người ló ra, còn đưa tay làm động tác đè xuống, có vẻ như là bảo Lưu Thịnh nhỏ giọng chút. Bên này, Mạnh Kình Tùng giơ ống nhòm lên xem, có thể thấy được khá rõ, nói: “Vi Bưu ở đây.”
Mạnh Thiên Tư ừ một tiếng, dùng viên sỏi vạch lên mặt đất một sọc ngang.
Một người.
Lưu Thịnh thấy Vi Bưu ra hiệu xong thì xoay người biến mất, biết là y xuống nhà, bèn đứng tại chỗ chờ, còn giả bộ gãi gãi đầu, hết nhìn đông lại nhìn tây, vẻ mặt khó hiểu.
Vi Bưu xuống dưới rất nhanh, bước chân lại rất nhẹ nhàng, thông thường, nhà sàn gỗ đều có dấu vết năm tháng, giẫm lên một cái là kẽo cà kẽo kẹt, nhưng cả đường y xuống đây, Lưu Thịnh gần như không nghe thấy một tiếng gỗ kêu nào lớn, điều này khiến gã sinh lòng cảnh giác: Người này nhìn thì thô kệch, song thân thủ chỉ sợ là không tệ, xem ra phải khéo léo, không thể liều mạng được.
Có điều, ngoài mặt hắn không để lộ ra, chỉ nghển cổ nhìn ra sau Vi Bưu: “Chú Gàn đâu…”
Giọng hơi lớn, Vi Bưu cuống quít dựng ngón trỏ lên xuỵt gã: “Nhỏ giọng, nhỏ giọng hộ với.”
Lưu Thịnh không hiểu ra sao, Vi Bưu hơi xấu hổ: “Em gái tôi bị ốm, đang ngủ, sợ làm ồn đến em ấy.”
Xem ra cô gái tên Huống Mỹ Doanh kia cũng ở đây, lòng bàn tay Lưu Thịnh rịn mồ hôi: trước khi xuất phát, Liễu Quan Quốc đã phân phó, lần này tới chủ yếu là để tìm đồ, xác định ba người kia có mặt ở đây hay không trước rồi hạ gục từng người bằng cách nào kiệm sức nhất là được, người không chạy, nhà ở đó, việc tìm đồ sẽ trở nên dễ dàng.
Gã rất phối hợp mà hạ giọng: “Chú Gàn đâu? Đã hẹn tôi tới xem vỏ mặt quỷ hun khói rồi cơ mà.”
Lão Gàn là na diện sư, tay nghề điêu khắc mặt nạ rước thần là do ông cha truyền lại, người Tương Tây thường gọi mặt nạ rước thần là “vỏ mặt quỷ” hoặc “vỏ mặt quỷ hun khói”, chính là gom vụn gỗ rơi xuống lúc điêu khắc mặt nạ vào chậu rồi châm lửa, đợi khói bốc lên thì hơ mặt nạ lên đó hun nướng, nghe nói làm vậy không những có thể chống mục nát mà còn có thể khiến khuôn mặt điêu khắc ra đẹp hơn, trở nên sinh động hơn, cơ hồ giống y như thật, có người xứ khác đùa cợt gọi làm vậy là “luộc đậu đun cả cây” – bây đã đục ông xuống thành phế liệu rồi còn muốn đốt ông đây lên hun khói cho vỏ mặt, vốn cùng một gốc rễ mà ra, hà tất phải đã phân biệt đẳng cấp lại còn hun nướng lẫn nhau thế.
Vi Bưu hoàn toàn không hiểu vỏ mặt quỷ hun khói là gì, cũng không có ý định hỏi thăm, chỉ muốn mau mau chóng chóng đuổi gã đi: “Có người mở tiệc mời khách, ông ấy lên huyện ăn cơm rồi, không nói cho anh biết à?”
Lưu Thịnh ồ một tiếng, nhíu mày lại như đang cẩn thận nghĩ lại xem có chuyện này không, lại quan sát Vi Bưu một lượt từ trên xuống dưới: “Nhớ ra rồi, anh là họ hàng thân thích trong thành phố của chú Gàn à?”
Vi Bưu không biết Lưu Thịnh lai lịch ra sao, nhưng nghe gã mở miệng gọi chú Gàn, đến chuyện “họ hàng thân thích trong thành phố” cũng biết, nghĩ chắc là người quen của lão Gàn, bèn gật đầu.
Lưu Thịnh cười toe toét, hết mình biểu diễn lòng nhiệt tình của người miền núi, hết hỏi han lại thăm hỏi, còn hợp thời giả bộ ngu ngốc chất phác, sau cùng một lần nữa nhìn chung quanh: “Không phải nói có ba người à, một anh chàng nữa đâu? Vào rừng đi dạo rồi à?”
Gã vô cùng niềm nở: “Trong rừng không yên bình lắm đâu, nghe nói bây giờ còn có cọp ngựa đó, hổ còn phải sợ nó nữa là.”
Vi Bưu phiền gã muốn chết, lại không tiện nối cáu: “Không phải, cũng…đang ngủ.”
Lưu Thịnh bất giác liếc lên ánh đèn tầng hai: Lão Gàn có nói rằng Giang Luyện trọ ở tầng hai – quái thật, trời còn chưa tối hẳn mà đã ngủ rồi à, lại còn ngủ để đèn nữa.
Không phải là ma cà rồng không thể ra nắng đâu chứ?