Xuân Hạ Thu Đông Rồi Lại Xuân
Chương 2
Ngày Khuông Tư Mẫn thi đấu đúng vào ngày làm việc của Khuông Ngữ Điềm, may mắn cô chỉ là giáo viên âm nhạc “có cũng được, không có cũng không sao”, hơn nữa cô dạy chủ yếu các lớp khối 9 nên công việc không quá vất vả, chị Tống – giáo viên ngữ văn liền vui vẻ đồng ý đổi giờ với cô.
“Tiểu Khuông, thứ tư tuần sau em bận việc gì hả?”
Khuông Ngữ Điềm đứng bên cạnh bàn làm việc, “Em gái em có trận đấu, nên em đi cổ vũ cho con bé.”
“Trận đấu gì vậy?”
“Đấu bóng rổ chị ạ.”
“Con gái cũng chơi bóng rổ ư?” Chị Tống đẩy mắt kính, “Chuyện này hiếm đó.”
Bỗng nhiên có một giọng nói non nớt của trẻ con vang lên, “Không hiếm đâu ạ, con cũng có thể chơi bóng rổ, nhảy lên thật cao là đằng khác.”
Người vừa nói chuyện chính là con trai của chị Tống, năm nay cậu bé bốn tuổi, dáng người hơi gầy, có chút tinh nghịch, lúc này cậu bé đang cầm con Iron Man chạy tới chạy lui trong văn phòng.
“Con là con trai, con trai cũng biết chơi bóng rổ!”
Chị Tống lo cậu đụng phải đồ vật trong văn phòng, chị cau mày bảo cậu bé không được nghịch ngợm. Nhưng con trai chị vờ như không nghe thấy, cậu bé vẫn chạy tới chạy lui trong phòng, quả nhiên một lúc sau cậu bé va phải chồng hồ sơ, mấy tập hồ sơ giống như quân bài domino rơi đầy đất.
Chị Tống đau cả đầu nên mắng cậu bé mấy câu. Khuông Ngữ Điềm mỉm cười, cô cúi người nhặt mấy tập hồ sơ rồi xếp lại vào chỗ cũ.
“Lần sau con còn nghịch ngợm như này thì mẹ chặt tay!”
Cậu bé chạy bình bịch ra xa rồi trốn phía sau ghế, chỉ lộ ra mỗi đôi mắt to tròn, “Không được, mẹ không được chặt tay con!” Cậu bé giấu tay phải ra sau lưng, còn tay trái bắt đầu diễn tả hành động, “Không tay là chú yêu quái, con không muốn mất tay, con muốn có tay, muốn có tay!”
Chị Tống phụ Khuông Ngữ Điềm sắp xếp lại tập hồ sơ, sau đó mới đi qua túm con trai, “Con nói vớ vẩn cái gì vậy?”
“Con thấy ở ngoài cửa, ngày nào chú quái vật cũng đi qua đi lại, chú quái vật không có tay.”
Cậu bé buông thõng tay phải, bắt chước giống hệt người đàn ông mà cậu từng nhìn thấy, “Mỗi lần con tới gần là chú quái vật lập tức rời đi, chắc chắn chú ấy đi biến hình.”
Chị Tống nghiêm mặt, “Gì mà chú quái vật có tay với không tay, lần sau con không được tới gần người lạ, nhớ chưa?!”
Cậu bé phụng phịu trả lời: “Vâng.”
Chị Tống trừng mắt nhìn con trai và thở dài, lúc quay đầu vẫn thấy Khuông Ngữ Điềm đứng đó, chị vội đi qua nói chuyện, “Chị đã từng nói với em rồi, bây giờ loại người nào cũng có. Tiểu Khuông, em ra ngoài một mình nhớ phải cẩn thận. Mấy người khuyết tật như mất tay mất chân, đáng thương thì đáng thương…” Chị nhún vai, cố tình hạ nhỏ giọng, “Nhưng vẫn phải đề phòng, các cụ có câu biết người biết mặt khó biết lòng.”
Khuông Ngữ Điềm không bày tỏ ý kiến, cô rũ mắt và nói câu “Cảm ơn”.
…
Khuông Ngữ Điềm định tìm Từ Cẩn Sơ để nói chuyện thêm lần nữa, nhưng suy đi nghĩ lại thì cô cũng không biết mình nên nói chuyện gì với anh. Có khá nhiều người biết chuyện của bọn họ, bây giờ gặp mặt nói chuyện cũng không phải là sự lựa chọn tốt cho cả hai.
Khuông Ngữ Điềm về đến nhà mới có 7 giờ, nhưng sắc trời bên ngoài đã tối sầm.
Tôn Úc Khả đang sì sụp ăn mì tôm, nghe thấy tiếng động phía sau thì bèn quay đầu lại, đến khi nhìn thấy bạn mình, cô lại xoay người tiếp tục ăn mì.
Khuông Ngữ Điềm cởi giày cao gót, cô đi vào nhà rồi ngồi khoanh chân bên cạnh Tôn Úc Khả, “Sao cậu lại ăn mì?”
“Tớ lười ra ngoài.” Tôn Úc Khả ngậm miếng mì trong miệng, giọng nói nghe không được rõ ràng, “Trời tối, bên ngoài không an toàn.”
Khuông Ngữ Điềm ngạc nhiên nhướng mày, từ trước đến giờ bạn của cô là người luôn không sợ trời không sợ đất, “Cậu mà cũng sợ ư?”
Tôn Úc Khả đặt bát mì xuống bàn, sau đó với tờ khăn giấy lau miệng, “Tớ không sợ, nhưng tớ không chịu nổi khi bị người ta hù doạ.”
“Ai dám doạ cậu?”
“Là bác gái hay nhảy khiêu vũ dưới quảng trường ấy, suốt ngày nói với tớ là bên cạnh có người đàn ông cụt tay lập dị, chẳng nói chẳng cười, mặt mày lúc nào cũng u ám. Bác ấy còn nói có khả năng anh ta là tội phạm truy nã đang lẩn trốn.”
Khuông Ngữ Điềm hơi giật mình, không hiểu sao cô lại nghĩ tới “chú quái vật không tay” mà con trai chị Tống đã nhắc tới chiều nay.
Mùi mì tôm quanh quẩn chóp mũi, Khuông Tư Điềm khịt mũi, ma xui quỷ khiến thế nào cô lại quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ.
Đèn đường màu vàng ấm áp tạo cho người ta cảm giác an toàn, giống như một người bạn đồng hành trên con đường chúng ta về nhà.
Khuông Ngữ Điềm hỏi Tôn Úc Khả, “Cậu có biết người kia trông như thế nào không?”
“Tớ không biết, chưa nhìn thấy bao giờ.” Toàn bộ sự chú ý của Tôn Úc Khả dồn hết vào chương trình trên máy tính bảng, cô thuận miệng nói,
“Tớ nghĩ mấy tên tội phạm truy nã chắc không khác nhau lắm đâu. Đều thuộc dạng dữ tợn, đầu trâu mặt ngựa, không thì cũng mặt dơi tai chuột.”
Khuông Ngữ Điềm im lặng không nói.
Trong lúc đợi Tôn Úc Khả ăn xong mì tôm, Khuông Ngữ Điềm đứng dậy rồi đi đến bên cửa sổ. Bầu trời màu xanh xám giống như chiếc kén khổng lồ bao bọc cả trần gian, người vào người ra đều bị mắc kẹt ở trong đó.
Khuông Ngữ Điềm mím chặt môi, cô nặng nề thở hắt ra rồi cầm điện thoại đi ra ngoài.
Ngôi nhà đối diện hiện rõ ràng trong tầm mắt, Khuông Ngữ Điềm hít một hơi thật sâu, cô sải bước vào hành lang, nhanh chóng băng qua vài bậc cầu thang rồi dừng lại trước một cánh cửa.
Cánh cửa đóng kín, trên ổ khoá loang lổ vết hoen gỉ, mặt trên cánh cửa dán tờ giấy quảng cáo màu vàng, chữ viết đều đã phai nhạt, chỉ mơ hồ nhìn thấy “dân cư”, “liên hệ”…
Khuông Ngữ Điềm cắn môi, cô nhìn chằm chằm cánh cửa và khẽ gọi, “Ninh Lẫm.”
Nhưng không có ai trả lời cô.
Giọng nói cô đơn vang vọng khắp hành lang, đè nặng ở trong lòng khiến cô không thở nổi.
Khuông Ngữ Điềm lui về sau một bước, cô đập cửa “rầm rầm” và lại tiếp tục gọi tên anh.
“Ninh Lẫm!”
Không ai trả lời.
Vẫn không có ai trả lời cô.
Khuông Ngữ Điềm chưa từ bỏ ý định, cô cởi giày cao gót, sau đó xoay người đi về phía cửa sổ bên hông nhà. Phía dưới cửa sổ có chiếc ghế gấp, cô bèn giẫm lên ghế rồi rướn người nhìn vào bên trong.
Ô cửa sổ bằng kính mờ mịt trong bóng đêm, không hề có dấu vết của sự sống, trông nó không khác gì một con quái vật khổng lồ đang há mồm đợi chờ con mồi.
Khuông Ngữ Điềm nhìn chằm chằm một lúc lâu, lâu đến nỗi hai mắt của cô khô khốc, lúc này cô mới chậm dãi bước xuống ghế.
Khuông Ngữ Điềm khom lưng nhặt đôi giày cao gót, cuối cùng cô vẫn không nhịn được mà chửi thầm: Mày đúng là đồ ngu!
Màn đêm buông xuống, sắc trời càng lúc càng tối.
Ánh đèn vàng ấm áp trên con đường cũng phải nhường lối cho sương đêm dày đặc. Những ngôi sao sáng dường như đang chơi trốn tìm trong màn sương lạnh giá, mọi thứ xung quanh dần trở nên mờ ảo, không rõ ràng.
Khuông Ngữ Điềm đi chân trần, lang thang trong màn đêm. Bỗng nhiên cô ngồi thụp xuống, hai tay khoanh trên đầu gối rồi chống cằm lên cánh tay.
Đèn đường cũ kỹ, ánh sáng mờ nhạt, mấy con muỗi vo ve quanh chụp đèn dường như đang cười nhạo sự ngu ngốc của cô.
Khuông Ngữ Điềm che mặt, trong lòng vô cùng đau đớn khổ sở, một cảm giác bất lực khi không thể chống lại số phận lại mãnh liệt dâng lên.
Gió đêm vương vấn giữa đất trời bao la, còn người kia thì ngoan cường tồn tại trong cuộc đời cô hệt như cỏ dại. Làm cô chẳng thể nào quên được, làm cô không đành lòng buông xuôi. Nếu cô cố gắng nhổ bỏ thì cơn đau kia chẳng khác nào cắt da cắt thịt.
Khuông Ngữ Điềm ngẩng đầu, dường như cô có thể nhìn thấy người con trai ấy đang đứng trên bậc cầu thang trong chiếc áo đồng phục màu đỏ tươi… và chưa từng rời xa cô.
Người cũ chuyện xưa, thời gian lặng lẽ trôi xa nhưng vẫn khiến cô muốn sống không được, muốn chết cũng chẳng xong.
….
Thời thiếu nữ của Khuông Ngữ Điềm gắn liền với con phố cổ.
Khi ấy phố cổ không giống như bây giờ, nó mang đậm phong cách cổ xưa với những nét trạm trổ cổ kính và không gian xưa cũ. Vào thời điểm đó, kẻ xấu người tốt hỗn tạp một chỗ, khiến nơi đây không khác gì trạm trung chuyển của người đến kẻ đi.
Ngày tháng trôi qua, trạm trung chuyển cũng ngừng hoạt động, những người lang bạt bắt đầu lập nghiệp ở đây, quanh đi quẩn lại cũng có thể gặp được một gương mặt thân quen, phố cổ dần dần có mùi vị của con người.
Mẹ Khuông đã sống ở nơi này với hai cô con gái từ những ngày đầu tiên, mỗi ngày bọn họ sẽ làm mấy việc lặt vặt để kiếm sống. Hôm nay thì dệt sợi thuê cho người ta, ngày mai thì đi bán hoa ở đầu đường. Sau này mẹ Khuông còn mở một quầy hàng nhỏ để bọc dán màng cho người dân trong khu. Tóm lại cuộc sống của ba mẹ con không đến nỗi quá bấp bênh, mẹ Khuông thì luôn tay luôn chân với công việc của mình.
Những lúc mẹ bận rộn, Khuông Ngữ Điềm sẽ giúp mẹ chăm sóc em gái. Chính những ngày tháng chăm sóc em gái, cô đã tình cờ quen biết anh em nhà họ Ninh.
Phương nam mưa bụi mịt mờ, nhưng nơi đây lại có hai người cao ngạo, không chịu khuất phục và chẳng bao giờ để ai vào mắt.
Tuy bọn họ có vẻ ngoài giống hệt nhau, vậy mà Khuông Ngữ Điềm luôn phân biệt chuẩn xác đâu là anh, đâu là em.
Anh em nhà họ Ninh nổi tiếng khắp con phố cổ, bọn họ bị mọi người xa lánh vì không có bố mẹ nào muốn con mình tiếp xúc với những đứa trẻ có người mẹ ruồng bỏ chồng con để chạy theo tình nhân, còn người bố thì chọn cách bi quan nhảy lầu tự tử.
Tuy nhiên Khuông Ngữ Điềm lại là ngoại lệ.
–HẾT CHƯƠNG 02-
“Tiểu Khuông, thứ tư tuần sau em bận việc gì hả?”
Khuông Ngữ Điềm đứng bên cạnh bàn làm việc, “Em gái em có trận đấu, nên em đi cổ vũ cho con bé.”
“Trận đấu gì vậy?”
“Đấu bóng rổ chị ạ.”
“Con gái cũng chơi bóng rổ ư?” Chị Tống đẩy mắt kính, “Chuyện này hiếm đó.”
Bỗng nhiên có một giọng nói non nớt của trẻ con vang lên, “Không hiếm đâu ạ, con cũng có thể chơi bóng rổ, nhảy lên thật cao là đằng khác.”
Người vừa nói chuyện chính là con trai của chị Tống, năm nay cậu bé bốn tuổi, dáng người hơi gầy, có chút tinh nghịch, lúc này cậu bé đang cầm con Iron Man chạy tới chạy lui trong văn phòng.
“Con là con trai, con trai cũng biết chơi bóng rổ!”
Chị Tống lo cậu đụng phải đồ vật trong văn phòng, chị cau mày bảo cậu bé không được nghịch ngợm. Nhưng con trai chị vờ như không nghe thấy, cậu bé vẫn chạy tới chạy lui trong phòng, quả nhiên một lúc sau cậu bé va phải chồng hồ sơ, mấy tập hồ sơ giống như quân bài domino rơi đầy đất.
Chị Tống đau cả đầu nên mắng cậu bé mấy câu. Khuông Ngữ Điềm mỉm cười, cô cúi người nhặt mấy tập hồ sơ rồi xếp lại vào chỗ cũ.
“Lần sau con còn nghịch ngợm như này thì mẹ chặt tay!”
Cậu bé chạy bình bịch ra xa rồi trốn phía sau ghế, chỉ lộ ra mỗi đôi mắt to tròn, “Không được, mẹ không được chặt tay con!” Cậu bé giấu tay phải ra sau lưng, còn tay trái bắt đầu diễn tả hành động, “Không tay là chú yêu quái, con không muốn mất tay, con muốn có tay, muốn có tay!”
Chị Tống phụ Khuông Ngữ Điềm sắp xếp lại tập hồ sơ, sau đó mới đi qua túm con trai, “Con nói vớ vẩn cái gì vậy?”
“Con thấy ở ngoài cửa, ngày nào chú quái vật cũng đi qua đi lại, chú quái vật không có tay.”
Cậu bé buông thõng tay phải, bắt chước giống hệt người đàn ông mà cậu từng nhìn thấy, “Mỗi lần con tới gần là chú quái vật lập tức rời đi, chắc chắn chú ấy đi biến hình.”
Chị Tống nghiêm mặt, “Gì mà chú quái vật có tay với không tay, lần sau con không được tới gần người lạ, nhớ chưa?!”
Cậu bé phụng phịu trả lời: “Vâng.”
Chị Tống trừng mắt nhìn con trai và thở dài, lúc quay đầu vẫn thấy Khuông Ngữ Điềm đứng đó, chị vội đi qua nói chuyện, “Chị đã từng nói với em rồi, bây giờ loại người nào cũng có. Tiểu Khuông, em ra ngoài một mình nhớ phải cẩn thận. Mấy người khuyết tật như mất tay mất chân, đáng thương thì đáng thương…” Chị nhún vai, cố tình hạ nhỏ giọng, “Nhưng vẫn phải đề phòng, các cụ có câu biết người biết mặt khó biết lòng.”
Khuông Ngữ Điềm không bày tỏ ý kiến, cô rũ mắt và nói câu “Cảm ơn”.
…
Khuông Ngữ Điềm định tìm Từ Cẩn Sơ để nói chuyện thêm lần nữa, nhưng suy đi nghĩ lại thì cô cũng không biết mình nên nói chuyện gì với anh. Có khá nhiều người biết chuyện của bọn họ, bây giờ gặp mặt nói chuyện cũng không phải là sự lựa chọn tốt cho cả hai.
Khuông Ngữ Điềm về đến nhà mới có 7 giờ, nhưng sắc trời bên ngoài đã tối sầm.
Tôn Úc Khả đang sì sụp ăn mì tôm, nghe thấy tiếng động phía sau thì bèn quay đầu lại, đến khi nhìn thấy bạn mình, cô lại xoay người tiếp tục ăn mì.
Khuông Ngữ Điềm cởi giày cao gót, cô đi vào nhà rồi ngồi khoanh chân bên cạnh Tôn Úc Khả, “Sao cậu lại ăn mì?”
“Tớ lười ra ngoài.” Tôn Úc Khả ngậm miếng mì trong miệng, giọng nói nghe không được rõ ràng, “Trời tối, bên ngoài không an toàn.”
Khuông Ngữ Điềm ngạc nhiên nhướng mày, từ trước đến giờ bạn của cô là người luôn không sợ trời không sợ đất, “Cậu mà cũng sợ ư?”
Tôn Úc Khả đặt bát mì xuống bàn, sau đó với tờ khăn giấy lau miệng, “Tớ không sợ, nhưng tớ không chịu nổi khi bị người ta hù doạ.”
“Ai dám doạ cậu?”
“Là bác gái hay nhảy khiêu vũ dưới quảng trường ấy, suốt ngày nói với tớ là bên cạnh có người đàn ông cụt tay lập dị, chẳng nói chẳng cười, mặt mày lúc nào cũng u ám. Bác ấy còn nói có khả năng anh ta là tội phạm truy nã đang lẩn trốn.”
Khuông Ngữ Điềm hơi giật mình, không hiểu sao cô lại nghĩ tới “chú quái vật không tay” mà con trai chị Tống đã nhắc tới chiều nay.
Mùi mì tôm quanh quẩn chóp mũi, Khuông Tư Điềm khịt mũi, ma xui quỷ khiến thế nào cô lại quay đầu nhìn ra ngoài cửa sổ.
Đèn đường màu vàng ấm áp tạo cho người ta cảm giác an toàn, giống như một người bạn đồng hành trên con đường chúng ta về nhà.
Khuông Ngữ Điềm hỏi Tôn Úc Khả, “Cậu có biết người kia trông như thế nào không?”
“Tớ không biết, chưa nhìn thấy bao giờ.” Toàn bộ sự chú ý của Tôn Úc Khả dồn hết vào chương trình trên máy tính bảng, cô thuận miệng nói,
“Tớ nghĩ mấy tên tội phạm truy nã chắc không khác nhau lắm đâu. Đều thuộc dạng dữ tợn, đầu trâu mặt ngựa, không thì cũng mặt dơi tai chuột.”
Khuông Ngữ Điềm im lặng không nói.
Trong lúc đợi Tôn Úc Khả ăn xong mì tôm, Khuông Ngữ Điềm đứng dậy rồi đi đến bên cửa sổ. Bầu trời màu xanh xám giống như chiếc kén khổng lồ bao bọc cả trần gian, người vào người ra đều bị mắc kẹt ở trong đó.
Khuông Ngữ Điềm mím chặt môi, cô nặng nề thở hắt ra rồi cầm điện thoại đi ra ngoài.
Ngôi nhà đối diện hiện rõ ràng trong tầm mắt, Khuông Ngữ Điềm hít một hơi thật sâu, cô sải bước vào hành lang, nhanh chóng băng qua vài bậc cầu thang rồi dừng lại trước một cánh cửa.
Cánh cửa đóng kín, trên ổ khoá loang lổ vết hoen gỉ, mặt trên cánh cửa dán tờ giấy quảng cáo màu vàng, chữ viết đều đã phai nhạt, chỉ mơ hồ nhìn thấy “dân cư”, “liên hệ”…
Khuông Ngữ Điềm cắn môi, cô nhìn chằm chằm cánh cửa và khẽ gọi, “Ninh Lẫm.”
Nhưng không có ai trả lời cô.
Giọng nói cô đơn vang vọng khắp hành lang, đè nặng ở trong lòng khiến cô không thở nổi.
Khuông Ngữ Điềm lui về sau một bước, cô đập cửa “rầm rầm” và lại tiếp tục gọi tên anh.
“Ninh Lẫm!”
Không ai trả lời.
Vẫn không có ai trả lời cô.
Khuông Ngữ Điềm chưa từ bỏ ý định, cô cởi giày cao gót, sau đó xoay người đi về phía cửa sổ bên hông nhà. Phía dưới cửa sổ có chiếc ghế gấp, cô bèn giẫm lên ghế rồi rướn người nhìn vào bên trong.
Ô cửa sổ bằng kính mờ mịt trong bóng đêm, không hề có dấu vết của sự sống, trông nó không khác gì một con quái vật khổng lồ đang há mồm đợi chờ con mồi.
Khuông Ngữ Điềm nhìn chằm chằm một lúc lâu, lâu đến nỗi hai mắt của cô khô khốc, lúc này cô mới chậm dãi bước xuống ghế.
Khuông Ngữ Điềm khom lưng nhặt đôi giày cao gót, cuối cùng cô vẫn không nhịn được mà chửi thầm: Mày đúng là đồ ngu!
Màn đêm buông xuống, sắc trời càng lúc càng tối.
Ánh đèn vàng ấm áp trên con đường cũng phải nhường lối cho sương đêm dày đặc. Những ngôi sao sáng dường như đang chơi trốn tìm trong màn sương lạnh giá, mọi thứ xung quanh dần trở nên mờ ảo, không rõ ràng.
Khuông Ngữ Điềm đi chân trần, lang thang trong màn đêm. Bỗng nhiên cô ngồi thụp xuống, hai tay khoanh trên đầu gối rồi chống cằm lên cánh tay.
Đèn đường cũ kỹ, ánh sáng mờ nhạt, mấy con muỗi vo ve quanh chụp đèn dường như đang cười nhạo sự ngu ngốc của cô.
Khuông Ngữ Điềm che mặt, trong lòng vô cùng đau đớn khổ sở, một cảm giác bất lực khi không thể chống lại số phận lại mãnh liệt dâng lên.
Gió đêm vương vấn giữa đất trời bao la, còn người kia thì ngoan cường tồn tại trong cuộc đời cô hệt như cỏ dại. Làm cô chẳng thể nào quên được, làm cô không đành lòng buông xuôi. Nếu cô cố gắng nhổ bỏ thì cơn đau kia chẳng khác nào cắt da cắt thịt.
Khuông Ngữ Điềm ngẩng đầu, dường như cô có thể nhìn thấy người con trai ấy đang đứng trên bậc cầu thang trong chiếc áo đồng phục màu đỏ tươi… và chưa từng rời xa cô.
Người cũ chuyện xưa, thời gian lặng lẽ trôi xa nhưng vẫn khiến cô muốn sống không được, muốn chết cũng chẳng xong.
….
Thời thiếu nữ của Khuông Ngữ Điềm gắn liền với con phố cổ.
Khi ấy phố cổ không giống như bây giờ, nó mang đậm phong cách cổ xưa với những nét trạm trổ cổ kính và không gian xưa cũ. Vào thời điểm đó, kẻ xấu người tốt hỗn tạp một chỗ, khiến nơi đây không khác gì trạm trung chuyển của người đến kẻ đi.
Ngày tháng trôi qua, trạm trung chuyển cũng ngừng hoạt động, những người lang bạt bắt đầu lập nghiệp ở đây, quanh đi quẩn lại cũng có thể gặp được một gương mặt thân quen, phố cổ dần dần có mùi vị của con người.
Mẹ Khuông đã sống ở nơi này với hai cô con gái từ những ngày đầu tiên, mỗi ngày bọn họ sẽ làm mấy việc lặt vặt để kiếm sống. Hôm nay thì dệt sợi thuê cho người ta, ngày mai thì đi bán hoa ở đầu đường. Sau này mẹ Khuông còn mở một quầy hàng nhỏ để bọc dán màng cho người dân trong khu. Tóm lại cuộc sống của ba mẹ con không đến nỗi quá bấp bênh, mẹ Khuông thì luôn tay luôn chân với công việc của mình.
Những lúc mẹ bận rộn, Khuông Ngữ Điềm sẽ giúp mẹ chăm sóc em gái. Chính những ngày tháng chăm sóc em gái, cô đã tình cờ quen biết anh em nhà họ Ninh.
Phương nam mưa bụi mịt mờ, nhưng nơi đây lại có hai người cao ngạo, không chịu khuất phục và chẳng bao giờ để ai vào mắt.
Tuy bọn họ có vẻ ngoài giống hệt nhau, vậy mà Khuông Ngữ Điềm luôn phân biệt chuẩn xác đâu là anh, đâu là em.
Anh em nhà họ Ninh nổi tiếng khắp con phố cổ, bọn họ bị mọi người xa lánh vì không có bố mẹ nào muốn con mình tiếp xúc với những đứa trẻ có người mẹ ruồng bỏ chồng con để chạy theo tình nhân, còn người bố thì chọn cách bi quan nhảy lầu tự tử.
Tuy nhiên Khuông Ngữ Điềm lại là ngoại lệ.
–HẾT CHƯƠNG 02-