Truyền Thuyết Hùng Bá - Trang 3
Chương 74
Dịch: Mạc Nguyệt
“Vô Song Thành sẽ không bị diệt… Gia tộc Độc Cô nhất định sẽ sừng sững muôn đời… Các ngươi được nước lấn tới… thì đừng trách ta cá chết lưới rách!”
“Nếu ta có thể giúp ngươi giữ vững Vô Song Thành và gia tộc Độc Cô, ngươi sẽ lấy gì để báo đáp?”
“Ai?! Ngươi… là ai? Ngươi… làm sao vào được đây?”
“Ta là ai không quan trọng. Điều quan trọng là… ta có thể giúp ngươi giữ được Vô Song Thành và gia tộc Độc Cô.”
“Ngươi là… người Đông Doanh?”
“Ha ha ha! Thật nực cười! Bản tôn là tổ tông của lũ Đông Doanh, nhưng không phải người Đông Doanh!”
“Vậy ngươi.. rốt cuộc muốn thế nào?”
“Ta chỉ cần…”
“Ngươi! Đừng hòng!”
“Hừ! Đúng là không biết điều. Nhìn cho rõ xem đây là ai…”
“A! Ngươi…”
…
“Ngoài bản tôn, còn ai xứng có được tuyệt chiêu vô tiền khoáng hậu Khuynh Thành Chi Luyến? Ha ha… ta đã chờ quá lâu rồi…”
…
Sáng sớm hôm sau, Nhiếp Phong vừa lên đường vừa gặm bánh bao chay. Đêm qua cậu tìm quán trọ nghỉ tạm, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy mọi manh mối lúc trước gần như đều đứt đoạn. Miếu Võ Thánh đã sập, cao thủ bí ẩn kia cũng chẳng thấy bóng đâu. Rốt cuộc bước tiếp theo phải làm gì đây? Sao lại… trùng hợp như thế? Chẳng lẽ mọi chuyện đều do có người đứng sau thúc đẩy?
Nhiếp Phong đang muộn phiền thì chợt cảm nhận được một ánh mắt nóng rực ghim vào… cái bánh bao mình đang cầm. Cậu lần theo đường nhìn thì thấy một cô bé chừng bảy tuổi, tóc buộc túm hai bên, mặt tròn, đỏ hây hây như táo, thân hình thấp bé, mũm mĩm, trông như quả bí đao, rất đáng yêu. Cô bé ngậm ngón cái, trông vừa ngượng ngùng vừa tội nghiệp, đôi mắt to tròn lúng liếng vẫn nhìn chằm chằm vào cái bánh bao trong tay cậu.
Ánh mắt thèm muốn ấy như đang nói với Nhiếp Phong rằng cô bé muốn dùng cái miệng nhỏ xinh của mình chén sạch bánh bao!
Nhiếp Phong thấy cô bé sắp ch4y nước miếng đến nơi, thực sự cảm nhận được cảnh giới tối cao “chỉ còn ta và vật”, không khỏi cười thầm, khuỵu gối ngồi trước mặt cô bé rồi dịu dàng bảo: “Bé ngoan, em tên là gì?”
Cô bé vẫn nhìn chằm chằm cái bánh bao của Nhiếp Phong, miệng vô thức thốt lên: “Tiểu… Miêu.”
Tiểu Miêu? Nhiếp Phong sửng sốt, nghĩ thầm cha mẹ cô bé này đúng là “tài hoa khác thường”, dùng tên động vật để đặt cho con mình. Nhưng cô bé này lại rất đúng với cái tên đó, đôi mắt to tròn sáng rực như mắt mèo, hoạt bát, lanh lợi, trông rất dễ thương.
Nhiếp Phong cười dịu dàng, lấy trong lòng ra một cái bánh bao bọc trong túi vải, đưa cho cô bé: “Cái bánh kia anh cắn mất một miếng rồi. Anh cho em cái này nhé?”
Đôi mắt trong ngần như bảo thạch của Tiểu Miêu sáng rực, cô bé sung sướng reo lên: “Cảm ơn đại ca!” Sau đấy cô bé nhận lấy bánh bao, nhét thẳng vào mồm, động tác nhanh chẳng kém gì các cao thủ võ lâm.
Chỉ lát sau, Tiểu Miêu đã chén sạch cái bánh bao to uỳnh. Mắt cô bé lại “tha thiết” hướng đến cái bánh bao mới chỉ cắn một miếng của Nhiếp Phong.
Nhiếp Phong sửng sốt, ngỡ ngàng hỏi: “Không phải chứ? Cái này bị cắn mất một miếng rồi… em cũng muốn sao?”
Tiểu Miêu nghe thế gật lấy gật để.
Nhiếp Phong nhìn hai búi tóc lắc lư theo động tác gật mạnh của cô bé, cuối cùng đành đầu hàng, hai tay dâng bánh bao.
Tiểu Miêu nhận lấy bánh, đang định ngấu nghiến thì cách đó không xa có người lớn tiếng: “Cái con mèo tham ăn này, có phải nhà không cho ăn đâu mà cứ không ngậm được mồm thế hả? Anh bảo là đứng đấy chờ cơ mà, thế mà lại đòi người lạ cho ăn. Mặt mũi người anh này đều mất hết vì em rồi!” Vừa dứt tiếng, một đôi tay đã nhéo tai Tiểu Miêu khiến cô bé ngoạc mồm ré lên.
Nhiếp Phong nhìn sang, thấy người véo tai cô bé là một cậu trai chừng mười tuổi, mặt mày đĩnh đạc, mặc áo vải thô.
Nhiếp Phong thấy cậu nhéo tai Tiểu Miêu quyết không buông đành khuyên nhủ: “Tha cho cô bé đi! Không phải cô bé đòi đâu, tôi chủ động cho mà.”
Thiếu niên nghe vậy mới liếc nhìn Nhiếp Phong: “Anh đúng là người tốt, nhưng em là anh trai nó, không thể nuông chiều được. Chỉ sợ có ngày nó béo đến độ không đi nổi, lúc đó ai sẽ bắt chuột?”
Tiểu Miêu gào lên: “Em không muốn bắt chuột! Chuột xấu lắm, lại không ăn được, bắt về làm gì? Em có phải mèo thật đâu…”
Hai anh em cãi qua cãi lại, thiếu niên cố giữ phong thái anh trai, cô bé thì không thoát được bản tính “mèo ham ăn”. Nhiếp Phong bị họ chọc cho phá lên cười. Nhưng đồng thời, cậu phẩy tay nhẹ lên cổ tay thiếu niên. Ngay lập tức, thiếu niên cảm thấy tay mình mất sức, buông tai Tiểu Miêu ra.
Thiếu niên trợn tròn mắt, mãi một lúc sau mới thốt lên: “Đại ca à, anh biết võ công… Anh nhận Tiểu Nam làm đồ đệ đi!” Nói rồi cậu quỳ xuống, dập đầu với Nhiếp Phong.
Nhiếp Phong thảng thốt, sau đấy vội vàng nâng cậu dậy: “Anh không phải người trong Vô Song Thành, chuyến này đi chỉ nán lại một thời gian ngắn thôi, có lẽ không hợp làm sư phụ của em…”
Thiếu niên tên Tiểu Nam chẳng chờ cậu nói hết đã vội cướp lời: “Không sao hết! Anh chỉ cần dạy em chút võ công trong khoảng thời gian này là đủ rồi!”
Nhiếp Phong chau mày: “Đủ? Tại sao em lại nhất quyết muốn học võ? Nếu học được rồi, em định làm gì?”
Tiểu Nam đáp chẳng buồn nghĩ: “Em sẽ tiếp tục khổ luyện cho đến khi có thể dùng đôi tay này lật đổ thành chủ Độc Cô Nhất Phương!”
Câu trả lời này nằm ngoài dự đoán của Nhiếp Phong. Thế nên cậu vội hỏi: “Sao em lại muốn lật đổ Độc Cô Nhất Phương?”
“Vì ông ta là kẻ xấu, rất đáng ghét!”
“Ồ? Đáng ghét thế nào?”
“Trước đây ông ta chỉ lo mở rộng thế lực của mình, chưa bao giờ lo nghĩ cho người dân trong Vô Song Thành, còn mặc kệ đám đệ tử vơ vét đồng tiền xương máu của mọi người, đàn áp, ức hiếp chúng em. Gần đây nghe nói ông ta thua trận, nhưng chẳng hề tém lại, mà còn dung túng đệ tử hơn trước. Hầu hết lũ đó đều ngang nhiên xông vào nhà dân cướp tiền!”
Lúc này Tiểu Miêu cũng phụ họa theo anh trai: “Đúng đấy! Cha mẹ bọn em vì bảo vệ tài sản của gia đình nên mới bị thuộc hạ của thành chủ… đá… đá chết…” Tiểu Miêu nghẹn ngào không nói nổi.
Nhiếp Phong không ngờ hai anh em này lại gặp cảnh ngộ bi thảm đến vậy. Hóa ra Độc Cô Nhất Phương còn xấu xa hơn những gì cậu tưởng. Xem ra sư phụ và Đoạn Lãng nói đúng lắm, chỉ có lật đổ kẻ ác như Độc Cô Nhất Phương mới có thể cứu được nhiều bách tính hơn. Chưa có giờ phút nào Nhiếp Phong quyết tâm diệt trừ Độc Cô Nhất Phương như bây giờ.
Nhiếp Phong thầm nghĩ người dân thành Thiên Ấm hạnh phúc hơn người dân ở Vô Song Thành rất nhiều.
Kế đó, cậu nhìn hai anh em nọ, nói với giọng hiền hòa: “Ban nãy Tiểu Miêu nói là các em đã mất cha mẹ, vậy bây giờ các em đang ở đâu?”
Tiểu Miễu vẫn đang khóc thút thít. Tiểu Nam đáp: “Bọn em đang ở nhà chị.”
“Chị? Các em còn có chị gái à?”
Tiểu Nam lắc đầu: “Chị ấy không phải chị ruột của bọn em. Chị ấy tốt lắm, tuy cũng nghèo nhưng vẫn bất chấp tất cả nhận nuôi bọn em.”
Nhiếp Phong nghe thế không khỏi thầm tán thưởng. Cô gái đó quả là người nhân hậu. Còn thiếu niên này mới ngần ấy tuổi đã hiểu rõ nhân tình thế sự, tương lai chắc chắn sẽ là đại trượng phu có ơn tất báo, tiền đồ rộng mở.
Thế là cậu cười bảo: “Tiểu Nam, em nói cho anh biết các em đang ở đâu đi. Đến lúc đó anh sẽ đi tìm em.”
Tiểu Nam ngẩn ra, dường như nghĩ mãi mới hiểu ý Nhiếp Phong, vừa vui sướng vừa không dám tin: “Anh ơi… anh đồng ý… làm sư phụ em thật ạ?”
Nhiếp Phong cười khẽ, gật đầu: “Ừ. Nhưng anh không thể dạy em lâu được…”
Tiểu Nam vội nói: “Không sao ạ, dù thế nào em cũng sẽ cố gắng học!” Nói rồi cậu xoay người chỉ về phía đông thành: “Bọn em ở trong căn nhà gạch đỏ cách miếu Võ Thánh không xa. Dễ tìm lắm. Bao giờ sư phụ mới tới?”
Lần đầu tiên trong đời được gọi là sư phụ, Nhiếp Phong cảm thấy dở khóc dở cười, rồi lại hơi động lòng, thế là đáp với vẻ vô cùng nghiêm túc: “Anh còn một vài việc phải xử lý. Chắc khoảng vài ngày nữa sẽ tới thăm.”
“Tốt quá!” Tiểu Nam với Tiểu Miêu đều rất vui. Tiểu Nam dắt tay Tiểu Miêu, nói với Nhiếp Phong: “Sư phụ, nếu đồ nhi không về nhà cùng em gái, chị ấy sẽ phát hiện bọn em lỉnh ra ngoài mất. Sư phụ phải giữ lời đấy nhé!” Nói rồi cậu bé vừa vẫy tay chào, vừa dắt Tiểu Miêu rời đi.
Nhiếp Phong dở khóc dở cười vẫy tay chào lại, nhìn hai anh em dần khuất bóng nơi góc phố, bấy giờ mới thở phào. Không ngờ đến đây để điều tra Khuynh Thành Chi Luyến, vậy mà lại thu nhận đệ tử đầu tiên trong đời. Nghĩ vậy, cậu không khỏi bật cười.
Nhiếp Phong đang vừa nghĩ vừa cười thì ở đầu kia con phố bỗng truyền tới tiếng ngựa hí rợn người, ngay sau đó là tiếng gào thét thê thảm và hàng loạt tiếng hét của những người dân thường.
Nụ cười của Nhiếp Phong cứng đờ. Cậu lập tức dùng khinh công nhảy lên nóc nhà, vừa đưa mắt nhìn đã thấy ngay đằng xa là Tiểu Nam, Tiểu Miêu và… máu đỏ đến nhức mắt!
Chỉ trong chớp mắt, Nhiếp Phong lao như tên bắn đến chỗ hai đứa trẻ. Đầu Tiểu Miêu bị rách da, máu chảy ròng ròng. Nhiếp Phong nhìn mà thót tim, vội vàng đưa tay lên mũi cô bé dò hơi thở, may sao vẫn còn khí tức, xem ra chỉ ngất đi thôi. Nhưng Tiểu Nam… cả hai tay của cậu bé đều bị nghiến đứt, máu đỏ tuôn như suối, hai cánh tay non nớt nằm chỏng chơ bên người, nhìn mà khiếp vía.
Biến cố xảy ra đột ngột, nhưng Nhiếp Phong gắng gượng giữ vững tinh thần, lập tức xuất chỉ điểm lên các huyệt chỗ đứt tay để tránh trường hợp cậu bé chết vì mất máu quá nhiều, đồng thời xé áo băng bó cho hai anh em.
Tiểu Miêu chưa tỉnh nhưng vết thương đã ngừng chảy máu, xem như không còn gì đáng ngại. Tiểu Nam thì khác, chỗ tay đứt tuy đã được điểm huyệt và băng bó, nhưng máu vẫn chảy ròng ròng. Cậu mới chỉ là một đứa bé mười tuổi, không có tu vi nội lực, dù công phu điểm huyệt của Nhiếp Phong tài tình đến đâu cũng không cầm máu nổi cho vết thương nặng cỡ này.
Nhiếp Phong thấy thế vội vàng truyền chân khí cho Tiểu Nam để giữ mạng, sau đó nhìn quanh quất, lạc giọng hỏi: “Có ai biết… đầu đuôi sự việc không?”
Một người phụ nữ ăn mặc lam lũ nhiệt tình đáp: “Tôi biết! Chính bọn đệ tử của thành chủ Độc Cô Nhất Phương gây ra đấy!”
Những người khác nghe thấy bà nói lớn rối rít khuyên ngăn: “Thím Ngưu! Thím đừng nói linh tinh…”
Thím Ngưu vặc lại: “Hừ! Tôi đã nghèo đến nỗi muốn đâm đầu xuống giếng rồi, còn sợ cái gì nữa? Tên đệ tử Vô Song Thành đó uống đến say khướt, thế mà lại phóng ngựa như chốn không người. Hai anh em nhà này đang đi bình thường, ai ngờ cái thằng trời đánh thánh đâm kia lại lao thẳng vào tụi nó…”
Tính mạng con người rẻ mạt đến vậy sao?
Thật ra ở rất nhiều nơi trên mảnh đất này, tính mạng con người đều rẻ mạt như vậy, nhất là khi những người dân thường không có tiền bạc cũng chẳng có quyền lực gặp phải kẻ có quyền thế, ngoài bấm bụng chịu đựng, tự nhận mình xui xẻo, chẳng thể làm gì khác.
Tuy Nhiếp Phong từng theo chân Nhiếp Nhân Vương đi khắp bốn phương, nhưng phần lớn thời gian cậu chỉ đuổi theo cha qua núi hoang rừng thẳm, không có nhiều trải nghiệm về nhân tình thế sự chân chính. Những năm ở trong Thiên Hạ Hội, cậu sống như một thiếu gia, thi thoảng dạo chơi trong thành Thiên Ấm. Người dân nơi đó có cuộc sống sung túc bậc nhất đất Thần Châu, làm sao có thể cho cậu trải nghiệm nỗi khổ của bách tính bình dân? Dù mấy năm nay bôn ba khắp nơi cứu giúp nạn dân, cậu cũng chỉ cho rằng vì có chiến tranh nên mới vậy. Mãi đến bây giờ, cậu mới biết cuộc sống của người dân thường nằm ngoài phạm vi quản hạt của Thiên Hạ Hội lại gian khổ và lắm nỗi bất đắc dĩ như vậy.
Giờ phút này, Nhiếp Phong cảm thấy mình khó lòng nhẫn nhịn, dường như ngọn lửa căm giận đang chực chờ bùng nổ trong lòng. Nhưng cậu vẫn phải giữ bình tĩnh, dốc sức cứu chữa cho Tiểu Nam. Cậu hiểu rằng dù có dồn hết nội lực của mình cũng không thể giúp cậu bé sống thêm được bao lâu, vậy nên cậu vội vàng hỏi những người xung quanh: “Gần đây có thầy lang không?” Bây giờ phải tìm thầy lang dùng thuốc cầm máu cho Tiểu Nam thì mới có cơ may sống sót.
Thím Ngưu lại tranh trả lời: “Có đấy, tiếc là ba thầy lang ở gần đây đều là người được thành chủ thuê để chuyên khám chữa cho các đệ tử, tuyệt đối không cho phép chẩn bệnh cho người khác. Thế nên…”
Nhiếp Phong thấy lạnh lòng, run giọng hỏi: “Thế… trừ những thầy lang đó ra, trong thành không còn ai khám chữa bệnh cho dân thường nữa sao?”
Thím Ngưu đáp: “Tất nhiên là có. Nhưng họ đều ở rất xa. Người gần nhất cách chỗ này cũng phải hơn một dặm…”
Nhiếp Phong vội hỏi: “Thím Ngưu, thầy lang đó ở đâu vậy?”
“Người đó ở trong một gian nhà ngói đỏ gần miếu Võ Thánh phía đông thành.”
Nhiếp Phong sững sờ. Nhà ngói đỏ gần miếu Võ Thánh? Đó chẳng phải nơi ở của người chị mà Tiểu Nam nói sao? Sao lại trùng hợp như vậy?
Nhưng cậu không nghĩ được nhiều nữa, bây giờ cậu chỉ muốn cứu người thôi.
Nhiếp Phong lập tức cởi áo, bọc lấy cánh tay đứt của Tiểu Nam, buộc vào người, rồi ôm cả hai anh em lên, nói với thím Ngưu: “Cảm ơn thím Ngưu… Thím là người tốt bụng, chắc chắn sẽ được báo đáp…” Lời còn chưa dứt, Nhiếp Phong cùng anh em Tiểu Nam đã mất bóng như một cơn gió.
Ở góc phố cách đó không xa, một thiếu niên đứng dựa tường thản nhiên theo dõi hết sự việc khẽ nhếch môi, mắng thầm: “Nhiếp Phong ơi là Nhiếp Phong, huynh đến đây để điều tra về Khuynh Thành Chi Luyến, bây giờ lại chạy đôn chạy đáo vì hai đứa trẻ…” Nghĩ đến đây, nó không khỏi thở dài, đáy mắt thoáng qua vẻ bất lực, nhưng ngay sau đấy đã trở nên cay độc, nói thầm: “Hết chuyện này đến chuyện khác… Độc Cô Nhất Phương, rốt cuộc ngươi muốn làm gì? Ngươi… nếu thực sự có toan tính đó, thì tại sao mấy năm nay lại dễ dàng bị sư phụ dồn vào đường cùng như thế? Vô Song Thành… quả nhiên không thể xem thường…” Chỉ trong chớp mắt, nơi góc phố đã chẳng còn bóng dáng thiếu niên đó nữa.
…
Cuối cùng Nhiếp Phong cũng đến được gian nhà ngói đỏ. Cậu hớt hải gọi cửa: “Mau mở cửa, có ai không? Tiểu Nam sắp nguy rồi…”
Cánh cửa cũ kĩ sắp bị Nhiếp Phong gõ đến dập nát kêu “kẽo kẹt” rồi từ từ mở ra. Vừa liếc nhìn, cậu không khỏi thảng thốt. Thật không ngờ cô gái phía sau cánh cửa lại là… Minh Nguyệt!
Thấp thoáng sau khe cửa cũ mòn là thiếu nữ với dung mạo làm rung động lòng người. Sự kết hợp mới kỳ quặc làm sao, tưởng như giai nhân bước ra từ tranh cổ ngàn năm.
Người chị của Tiểu Nam và Tiểu Miêu chính là Minh Nguyệt sao? Thế đại phu kia… là ai?
Nhiếp Phong còn chưa lên tiếng, Minh Nguyệt đã thấy ngay hai đứa trẻ nằm trong lòng cậu, hốt hoảng hô lên: “Mau theo ta vào trong, vết thương của chúng không thể để lâu hơn nữa.”
Nhiếp Phong vội vàng theo nàng vào phòng, đặt anh em Tiểu Nam lên giường. Minh Nguyệt cũng không nói thêm gì. Trán Tiểu Miêu đã ngừng chảy máu, không còn nguy hiểm đến tính mạng, nên việc cấp bách lúc này của nàng là cấp cứu cho Tiểu Nam bị thương nặng nhất.
Nhiếp Phong thấy Minh Nguyệt chỉ loáng cái đã tháo hết vải vụn cậu quấn quanh hai tay của Tiểu Nam, rồi lập tức lấy nước thuốc rửa vết thương cho cậu bé, động tác cực kỳ nhanh nhẹn, thành thạo, như thể một cao thủ thâm sâu khó lường, khiến cậu không khỏi cảm thán.
Có lẽ nàng ấy thực sự là một cao thủ thâm sâu khó lường… Một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần chỉ mới mười bốn tuổi mà lại có y thuật cao siêu nhường này… Rõ ràng nàng ấy là một đại phu giỏi, tại sao lại phải mãi nghệ ở chợ đêm?
Mặc dù có rất nhiều nghi vấn, nhưng bây giờ Nhiếp Phong chỉ quan tâm đến Tiểu Nam đang trong tình trạng nguy kịch. Cậu thoáng thấy vẻ ủ rũ hiện lên trên mặt Minh Nguyệt, trong lòng chợt có dự cảm chẳng lành, vội hỏi: “Minh Nguyệt cô nương, Tiểu Nam… thế nào rồi?
Minh Nguyệt nhìn cậu đăm đăm, khẽ nói: “Tuy cậu bé giữ được tính mạng, nhưng… hai cánh tay này… đã quá muộn rồi…”
Nhiếp Phong sửng sốt, chợt hỏi: “Cô nói là quá muộn? Chẳng lẽ vốn có hy vọng cứu chữa?”
Minh Nguyệt chầm chậm gật đầu: “Phải. Ta có phương pháp nối gân cốt bí truyền do tổ tiên để lại, chỉ cần tay chân không đứt rời quá lâu thì có thể dùng phương pháp đó để nối lại…”
Nhiếp Phong thầm kinh ngạc, vội hỏi: “Thế bây giờ thì sao?”
“Tiểu Nam…” Minh Nguyệt ngập ngừng, rồi bỗng nhìn chằm chằm vào Nhiếp Phong, hỏi: “Nếu ta nói là ta có thể dùng hai thốn gân mạch của công tử để nối lại đôi tay cho Tiểu Nam, công tử có bằng lòng không?”
Nhiếp Phong nói ngay chẳng cần nghĩ ngợi: “Minh Nguyệt cô nương, ta đương nhiên sẵn lòng. Cô hãy mau làm đi.”
Minh Nguyệt nhìn đăm đăm vào gương mặt kiên định của cậu, đôi mắt long lanh như ánh trăng chiếu rọi lòng sông, làm xao xuyến cõi lòng. Nàng hỏi với vẻ thăm dò: “Nhiếp đại ca, hy sinh hai thốn gân mạch không phải chuyện nhỏ, chỉ cần một sai lệch nhỏ cũng có thể khiến tay huynh tàn phế, huynh… thực sự không sợ sao?”
Nhiếp Phong thản nhiên đáp: “Nếu hy sinh hai thốn gân mạch là có thể xoay chuyển cuộc đời của một đứa bé, thì ta không sợ. Huống chi, Tiểu Nam đã là đồ đệ của ta rồi.”
Nghe vậy, Minh Nguyệt sững người: “Gì cơ? Nhiếp đại ca, huynh nhận Tiểu Nam làm đồ đệ ư? Huynh… biết võ công?”
Rốt cuộc là biết rồi còn hỏi hay thực sự không biết?
Nhiếp Phong vẫn chẳng đổi nét mặt: “Đúng vậy.”
Minh Nguyệt nói vẻ vẻ vô cùng nghiêm túc: “Vậy thì ta càng không thể để huynh làm chuyện này. Nhiếp đại ca, một thốn gân mạch một thành công lực, huynh hy sinh hai thốn gân mạch tương đương với việc bị phế mất hai thành công lực đấy!”
Nhưng Nhiếp Phong lại kiên quyết nói: “Minh Nguyệt cô nương, tại hạ không cho rằng đây là hy sinh. Chỉ hai thành công lực thôi đã có thể đổi lấy hai tay, thậm chí cả cuộc đời của một đứa trẻ, thực sự rất đáng giá…”
Minh Nguyệt nhìn cậu đăm đăm, dường như muốn nhìn cho thật rõ người này. Mãi một lúc sau, nàng cuối cùng cũng mỉm cười, dung nhan yêu kiều như tiên nữ giáng trần. Nàng cất tiếng lanh lảnh: “Được! Nhiếp đại ca, ta xin thay mặt Tiểu Nam cảm tạ huynh…” Lời này có mấy phần nhẹ nhõm, mấy phần long trọng, và cả… đôi chút tình cảm chẳng thể nói rõ.
“Chúng ta bắt đầu thôi!”
Nhiếp Phong chẳng hề do dự uống hết thuốc tê rồi chìm vào giấc ngủ. Nhìn nửa bên mặt tuấn tú ôn hòa sau khi đã say giấc, Minh Nguyệt bỗng siết chặt hai tay, đôi mắt trong trẻo như mặt hồ gợn sóng. Nàng nhẹ nhàng cúi xuống, đặt một nụ hôn khẽ lên trán Nhiếp Phong, thì thầm: “Sao lại có người… ngốc thế này? Chẳng cần hai thốn gân mạch của huynh, ta cũng có thể cứu Tiểu Nam… Haiz… Xin lỗi…”
Minh Nguyệt trầm mặc hồi lâu, cuối cùng rút từ cạnh giường ra một cái hộp, lấy ra một bình sứ trắng to bằng lòng bàn tay và một con dao găm bảy tấc mỏng tang mà sắc bén. Nàng đặt bình sứ xuống mép giường, nhấc tay Nhiếp Phong lên, nhắm thẳng miệng bình, dùng dao khía một đường. Thế này đâu phải nối gân cốt, mà giống như…
Đúng lúc đó, ngoài phòng bỗng truyền tới tiếng kiếm xé gió. Một thanh kiếm mỏng luồn vào trong như con rắn, lao thẳng tới con dao găm bảy tấc. “Keng” một tiếng, Minh Nguyệt nghiêng người nhảy bật ra chỗ cách giường một trượng, nhìn chằm chằm thiếu niên xông vào qua cửa sổ, nay đang đứng bên giường. Hai người nhìn nhau với vẻ mặt nghiêm nghị, khí thế không ngừng gia tăng.
Minh Nguyệt nghiêm mặt nhìn thiếu niên phía đối diện: “Ngươi là… Đoạn Lãng?”
Đoạn Lãng thoáng biến sắc, nhưng không trả lời, chỉ hơi cúi đầu liếc Nhiếp Phong đang ngủ say, nắm chặt kiếm trong tay, đáy mắt bừng lên sát khí khiếp người.
Đôi mắt Minh Nguyệt loáng qua tia sáng, nhìn không thấu tâm tư. Nàng vẫn nói với vẻ điềm nhiên: “Nếu đã cùng tới đây… thì chỉ có thể… cùng ở lại…”
Tức thì, bóng kiếm giao tranh!
“Vô Song Thành sẽ không bị diệt… Gia tộc Độc Cô nhất định sẽ sừng sững muôn đời… Các ngươi được nước lấn tới… thì đừng trách ta cá chết lưới rách!”
“Nếu ta có thể giúp ngươi giữ vững Vô Song Thành và gia tộc Độc Cô, ngươi sẽ lấy gì để báo đáp?”
“Ai?! Ngươi… là ai? Ngươi… làm sao vào được đây?”
“Ta là ai không quan trọng. Điều quan trọng là… ta có thể giúp ngươi giữ được Vô Song Thành và gia tộc Độc Cô.”
“Ngươi là… người Đông Doanh?”
“Ha ha ha! Thật nực cười! Bản tôn là tổ tông của lũ Đông Doanh, nhưng không phải người Đông Doanh!”
“Vậy ngươi.. rốt cuộc muốn thế nào?”
“Ta chỉ cần…”
“Ngươi! Đừng hòng!”
“Hừ! Đúng là không biết điều. Nhìn cho rõ xem đây là ai…”
“A! Ngươi…”
…
“Ngoài bản tôn, còn ai xứng có được tuyệt chiêu vô tiền khoáng hậu Khuynh Thành Chi Luyến? Ha ha… ta đã chờ quá lâu rồi…”
…
Sáng sớm hôm sau, Nhiếp Phong vừa lên đường vừa gặm bánh bao chay. Đêm qua cậu tìm quán trọ nghỉ tạm, nghĩ đi nghĩ lại, cảm thấy mọi manh mối lúc trước gần như đều đứt đoạn. Miếu Võ Thánh đã sập, cao thủ bí ẩn kia cũng chẳng thấy bóng đâu. Rốt cuộc bước tiếp theo phải làm gì đây? Sao lại… trùng hợp như thế? Chẳng lẽ mọi chuyện đều do có người đứng sau thúc đẩy?
Nhiếp Phong đang muộn phiền thì chợt cảm nhận được một ánh mắt nóng rực ghim vào… cái bánh bao mình đang cầm. Cậu lần theo đường nhìn thì thấy một cô bé chừng bảy tuổi, tóc buộc túm hai bên, mặt tròn, đỏ hây hây như táo, thân hình thấp bé, mũm mĩm, trông như quả bí đao, rất đáng yêu. Cô bé ngậm ngón cái, trông vừa ngượng ngùng vừa tội nghiệp, đôi mắt to tròn lúng liếng vẫn nhìn chằm chằm vào cái bánh bao trong tay cậu.
Ánh mắt thèm muốn ấy như đang nói với Nhiếp Phong rằng cô bé muốn dùng cái miệng nhỏ xinh của mình chén sạch bánh bao!
Nhiếp Phong thấy cô bé sắp ch4y nước miếng đến nơi, thực sự cảm nhận được cảnh giới tối cao “chỉ còn ta và vật”, không khỏi cười thầm, khuỵu gối ngồi trước mặt cô bé rồi dịu dàng bảo: “Bé ngoan, em tên là gì?”
Cô bé vẫn nhìn chằm chằm cái bánh bao của Nhiếp Phong, miệng vô thức thốt lên: “Tiểu… Miêu.”
Tiểu Miêu? Nhiếp Phong sửng sốt, nghĩ thầm cha mẹ cô bé này đúng là “tài hoa khác thường”, dùng tên động vật để đặt cho con mình. Nhưng cô bé này lại rất đúng với cái tên đó, đôi mắt to tròn sáng rực như mắt mèo, hoạt bát, lanh lợi, trông rất dễ thương.
Nhiếp Phong cười dịu dàng, lấy trong lòng ra một cái bánh bao bọc trong túi vải, đưa cho cô bé: “Cái bánh kia anh cắn mất một miếng rồi. Anh cho em cái này nhé?”
Đôi mắt trong ngần như bảo thạch của Tiểu Miêu sáng rực, cô bé sung sướng reo lên: “Cảm ơn đại ca!” Sau đấy cô bé nhận lấy bánh bao, nhét thẳng vào mồm, động tác nhanh chẳng kém gì các cao thủ võ lâm.
Chỉ lát sau, Tiểu Miêu đã chén sạch cái bánh bao to uỳnh. Mắt cô bé lại “tha thiết” hướng đến cái bánh bao mới chỉ cắn một miếng của Nhiếp Phong.
Nhiếp Phong sửng sốt, ngỡ ngàng hỏi: “Không phải chứ? Cái này bị cắn mất một miếng rồi… em cũng muốn sao?”
Tiểu Miêu nghe thế gật lấy gật để.
Nhiếp Phong nhìn hai búi tóc lắc lư theo động tác gật mạnh của cô bé, cuối cùng đành đầu hàng, hai tay dâng bánh bao.
Tiểu Miêu nhận lấy bánh, đang định ngấu nghiến thì cách đó không xa có người lớn tiếng: “Cái con mèo tham ăn này, có phải nhà không cho ăn đâu mà cứ không ngậm được mồm thế hả? Anh bảo là đứng đấy chờ cơ mà, thế mà lại đòi người lạ cho ăn. Mặt mũi người anh này đều mất hết vì em rồi!” Vừa dứt tiếng, một đôi tay đã nhéo tai Tiểu Miêu khiến cô bé ngoạc mồm ré lên.
Nhiếp Phong nhìn sang, thấy người véo tai cô bé là một cậu trai chừng mười tuổi, mặt mày đĩnh đạc, mặc áo vải thô.
Nhiếp Phong thấy cậu nhéo tai Tiểu Miêu quyết không buông đành khuyên nhủ: “Tha cho cô bé đi! Không phải cô bé đòi đâu, tôi chủ động cho mà.”
Thiếu niên nghe vậy mới liếc nhìn Nhiếp Phong: “Anh đúng là người tốt, nhưng em là anh trai nó, không thể nuông chiều được. Chỉ sợ có ngày nó béo đến độ không đi nổi, lúc đó ai sẽ bắt chuột?”
Tiểu Miêu gào lên: “Em không muốn bắt chuột! Chuột xấu lắm, lại không ăn được, bắt về làm gì? Em có phải mèo thật đâu…”
Hai anh em cãi qua cãi lại, thiếu niên cố giữ phong thái anh trai, cô bé thì không thoát được bản tính “mèo ham ăn”. Nhiếp Phong bị họ chọc cho phá lên cười. Nhưng đồng thời, cậu phẩy tay nhẹ lên cổ tay thiếu niên. Ngay lập tức, thiếu niên cảm thấy tay mình mất sức, buông tai Tiểu Miêu ra.
Thiếu niên trợn tròn mắt, mãi một lúc sau mới thốt lên: “Đại ca à, anh biết võ công… Anh nhận Tiểu Nam làm đồ đệ đi!” Nói rồi cậu quỳ xuống, dập đầu với Nhiếp Phong.
Nhiếp Phong thảng thốt, sau đấy vội vàng nâng cậu dậy: “Anh không phải người trong Vô Song Thành, chuyến này đi chỉ nán lại một thời gian ngắn thôi, có lẽ không hợp làm sư phụ của em…”
Thiếu niên tên Tiểu Nam chẳng chờ cậu nói hết đã vội cướp lời: “Không sao hết! Anh chỉ cần dạy em chút võ công trong khoảng thời gian này là đủ rồi!”
Nhiếp Phong chau mày: “Đủ? Tại sao em lại nhất quyết muốn học võ? Nếu học được rồi, em định làm gì?”
Tiểu Nam đáp chẳng buồn nghĩ: “Em sẽ tiếp tục khổ luyện cho đến khi có thể dùng đôi tay này lật đổ thành chủ Độc Cô Nhất Phương!”
Câu trả lời này nằm ngoài dự đoán của Nhiếp Phong. Thế nên cậu vội hỏi: “Sao em lại muốn lật đổ Độc Cô Nhất Phương?”
“Vì ông ta là kẻ xấu, rất đáng ghét!”
“Ồ? Đáng ghét thế nào?”
“Trước đây ông ta chỉ lo mở rộng thế lực của mình, chưa bao giờ lo nghĩ cho người dân trong Vô Song Thành, còn mặc kệ đám đệ tử vơ vét đồng tiền xương máu của mọi người, đàn áp, ức hiếp chúng em. Gần đây nghe nói ông ta thua trận, nhưng chẳng hề tém lại, mà còn dung túng đệ tử hơn trước. Hầu hết lũ đó đều ngang nhiên xông vào nhà dân cướp tiền!”
Lúc này Tiểu Miêu cũng phụ họa theo anh trai: “Đúng đấy! Cha mẹ bọn em vì bảo vệ tài sản của gia đình nên mới bị thuộc hạ của thành chủ… đá… đá chết…” Tiểu Miêu nghẹn ngào không nói nổi.
Nhiếp Phong không ngờ hai anh em này lại gặp cảnh ngộ bi thảm đến vậy. Hóa ra Độc Cô Nhất Phương còn xấu xa hơn những gì cậu tưởng. Xem ra sư phụ và Đoạn Lãng nói đúng lắm, chỉ có lật đổ kẻ ác như Độc Cô Nhất Phương mới có thể cứu được nhiều bách tính hơn. Chưa có giờ phút nào Nhiếp Phong quyết tâm diệt trừ Độc Cô Nhất Phương như bây giờ.
Nhiếp Phong thầm nghĩ người dân thành Thiên Ấm hạnh phúc hơn người dân ở Vô Song Thành rất nhiều.
Kế đó, cậu nhìn hai anh em nọ, nói với giọng hiền hòa: “Ban nãy Tiểu Miêu nói là các em đã mất cha mẹ, vậy bây giờ các em đang ở đâu?”
Tiểu Miễu vẫn đang khóc thút thít. Tiểu Nam đáp: “Bọn em đang ở nhà chị.”
“Chị? Các em còn có chị gái à?”
Tiểu Nam lắc đầu: “Chị ấy không phải chị ruột của bọn em. Chị ấy tốt lắm, tuy cũng nghèo nhưng vẫn bất chấp tất cả nhận nuôi bọn em.”
Nhiếp Phong nghe thế không khỏi thầm tán thưởng. Cô gái đó quả là người nhân hậu. Còn thiếu niên này mới ngần ấy tuổi đã hiểu rõ nhân tình thế sự, tương lai chắc chắn sẽ là đại trượng phu có ơn tất báo, tiền đồ rộng mở.
Thế là cậu cười bảo: “Tiểu Nam, em nói cho anh biết các em đang ở đâu đi. Đến lúc đó anh sẽ đi tìm em.”
Tiểu Nam ngẩn ra, dường như nghĩ mãi mới hiểu ý Nhiếp Phong, vừa vui sướng vừa không dám tin: “Anh ơi… anh đồng ý… làm sư phụ em thật ạ?”
Nhiếp Phong cười khẽ, gật đầu: “Ừ. Nhưng anh không thể dạy em lâu được…”
Tiểu Nam vội nói: “Không sao ạ, dù thế nào em cũng sẽ cố gắng học!” Nói rồi cậu xoay người chỉ về phía đông thành: “Bọn em ở trong căn nhà gạch đỏ cách miếu Võ Thánh không xa. Dễ tìm lắm. Bao giờ sư phụ mới tới?”
Lần đầu tiên trong đời được gọi là sư phụ, Nhiếp Phong cảm thấy dở khóc dở cười, rồi lại hơi động lòng, thế là đáp với vẻ vô cùng nghiêm túc: “Anh còn một vài việc phải xử lý. Chắc khoảng vài ngày nữa sẽ tới thăm.”
“Tốt quá!” Tiểu Nam với Tiểu Miêu đều rất vui. Tiểu Nam dắt tay Tiểu Miêu, nói với Nhiếp Phong: “Sư phụ, nếu đồ nhi không về nhà cùng em gái, chị ấy sẽ phát hiện bọn em lỉnh ra ngoài mất. Sư phụ phải giữ lời đấy nhé!” Nói rồi cậu bé vừa vẫy tay chào, vừa dắt Tiểu Miêu rời đi.
Nhiếp Phong dở khóc dở cười vẫy tay chào lại, nhìn hai anh em dần khuất bóng nơi góc phố, bấy giờ mới thở phào. Không ngờ đến đây để điều tra Khuynh Thành Chi Luyến, vậy mà lại thu nhận đệ tử đầu tiên trong đời. Nghĩ vậy, cậu không khỏi bật cười.
Nhiếp Phong đang vừa nghĩ vừa cười thì ở đầu kia con phố bỗng truyền tới tiếng ngựa hí rợn người, ngay sau đó là tiếng gào thét thê thảm và hàng loạt tiếng hét của những người dân thường.
Nụ cười của Nhiếp Phong cứng đờ. Cậu lập tức dùng khinh công nhảy lên nóc nhà, vừa đưa mắt nhìn đã thấy ngay đằng xa là Tiểu Nam, Tiểu Miêu và… máu đỏ đến nhức mắt!
Chỉ trong chớp mắt, Nhiếp Phong lao như tên bắn đến chỗ hai đứa trẻ. Đầu Tiểu Miêu bị rách da, máu chảy ròng ròng. Nhiếp Phong nhìn mà thót tim, vội vàng đưa tay lên mũi cô bé dò hơi thở, may sao vẫn còn khí tức, xem ra chỉ ngất đi thôi. Nhưng Tiểu Nam… cả hai tay của cậu bé đều bị nghiến đứt, máu đỏ tuôn như suối, hai cánh tay non nớt nằm chỏng chơ bên người, nhìn mà khiếp vía.
Biến cố xảy ra đột ngột, nhưng Nhiếp Phong gắng gượng giữ vững tinh thần, lập tức xuất chỉ điểm lên các huyệt chỗ đứt tay để tránh trường hợp cậu bé chết vì mất máu quá nhiều, đồng thời xé áo băng bó cho hai anh em.
Tiểu Miêu chưa tỉnh nhưng vết thương đã ngừng chảy máu, xem như không còn gì đáng ngại. Tiểu Nam thì khác, chỗ tay đứt tuy đã được điểm huyệt và băng bó, nhưng máu vẫn chảy ròng ròng. Cậu mới chỉ là một đứa bé mười tuổi, không có tu vi nội lực, dù công phu điểm huyệt của Nhiếp Phong tài tình đến đâu cũng không cầm máu nổi cho vết thương nặng cỡ này.
Nhiếp Phong thấy thế vội vàng truyền chân khí cho Tiểu Nam để giữ mạng, sau đó nhìn quanh quất, lạc giọng hỏi: “Có ai biết… đầu đuôi sự việc không?”
Một người phụ nữ ăn mặc lam lũ nhiệt tình đáp: “Tôi biết! Chính bọn đệ tử của thành chủ Độc Cô Nhất Phương gây ra đấy!”
Những người khác nghe thấy bà nói lớn rối rít khuyên ngăn: “Thím Ngưu! Thím đừng nói linh tinh…”
Thím Ngưu vặc lại: “Hừ! Tôi đã nghèo đến nỗi muốn đâm đầu xuống giếng rồi, còn sợ cái gì nữa? Tên đệ tử Vô Song Thành đó uống đến say khướt, thế mà lại phóng ngựa như chốn không người. Hai anh em nhà này đang đi bình thường, ai ngờ cái thằng trời đánh thánh đâm kia lại lao thẳng vào tụi nó…”
Tính mạng con người rẻ mạt đến vậy sao?
Thật ra ở rất nhiều nơi trên mảnh đất này, tính mạng con người đều rẻ mạt như vậy, nhất là khi những người dân thường không có tiền bạc cũng chẳng có quyền lực gặp phải kẻ có quyền thế, ngoài bấm bụng chịu đựng, tự nhận mình xui xẻo, chẳng thể làm gì khác.
Tuy Nhiếp Phong từng theo chân Nhiếp Nhân Vương đi khắp bốn phương, nhưng phần lớn thời gian cậu chỉ đuổi theo cha qua núi hoang rừng thẳm, không có nhiều trải nghiệm về nhân tình thế sự chân chính. Những năm ở trong Thiên Hạ Hội, cậu sống như một thiếu gia, thi thoảng dạo chơi trong thành Thiên Ấm. Người dân nơi đó có cuộc sống sung túc bậc nhất đất Thần Châu, làm sao có thể cho cậu trải nghiệm nỗi khổ của bách tính bình dân? Dù mấy năm nay bôn ba khắp nơi cứu giúp nạn dân, cậu cũng chỉ cho rằng vì có chiến tranh nên mới vậy. Mãi đến bây giờ, cậu mới biết cuộc sống của người dân thường nằm ngoài phạm vi quản hạt của Thiên Hạ Hội lại gian khổ và lắm nỗi bất đắc dĩ như vậy.
Giờ phút này, Nhiếp Phong cảm thấy mình khó lòng nhẫn nhịn, dường như ngọn lửa căm giận đang chực chờ bùng nổ trong lòng. Nhưng cậu vẫn phải giữ bình tĩnh, dốc sức cứu chữa cho Tiểu Nam. Cậu hiểu rằng dù có dồn hết nội lực của mình cũng không thể giúp cậu bé sống thêm được bao lâu, vậy nên cậu vội vàng hỏi những người xung quanh: “Gần đây có thầy lang không?” Bây giờ phải tìm thầy lang dùng thuốc cầm máu cho Tiểu Nam thì mới có cơ may sống sót.
Thím Ngưu lại tranh trả lời: “Có đấy, tiếc là ba thầy lang ở gần đây đều là người được thành chủ thuê để chuyên khám chữa cho các đệ tử, tuyệt đối không cho phép chẩn bệnh cho người khác. Thế nên…”
Nhiếp Phong thấy lạnh lòng, run giọng hỏi: “Thế… trừ những thầy lang đó ra, trong thành không còn ai khám chữa bệnh cho dân thường nữa sao?”
Thím Ngưu đáp: “Tất nhiên là có. Nhưng họ đều ở rất xa. Người gần nhất cách chỗ này cũng phải hơn một dặm…”
Nhiếp Phong vội hỏi: “Thím Ngưu, thầy lang đó ở đâu vậy?”
“Người đó ở trong một gian nhà ngói đỏ gần miếu Võ Thánh phía đông thành.”
Nhiếp Phong sững sờ. Nhà ngói đỏ gần miếu Võ Thánh? Đó chẳng phải nơi ở của người chị mà Tiểu Nam nói sao? Sao lại trùng hợp như vậy?
Nhưng cậu không nghĩ được nhiều nữa, bây giờ cậu chỉ muốn cứu người thôi.
Nhiếp Phong lập tức cởi áo, bọc lấy cánh tay đứt của Tiểu Nam, buộc vào người, rồi ôm cả hai anh em lên, nói với thím Ngưu: “Cảm ơn thím Ngưu… Thím là người tốt bụng, chắc chắn sẽ được báo đáp…” Lời còn chưa dứt, Nhiếp Phong cùng anh em Tiểu Nam đã mất bóng như một cơn gió.
Ở góc phố cách đó không xa, một thiếu niên đứng dựa tường thản nhiên theo dõi hết sự việc khẽ nhếch môi, mắng thầm: “Nhiếp Phong ơi là Nhiếp Phong, huynh đến đây để điều tra về Khuynh Thành Chi Luyến, bây giờ lại chạy đôn chạy đáo vì hai đứa trẻ…” Nghĩ đến đây, nó không khỏi thở dài, đáy mắt thoáng qua vẻ bất lực, nhưng ngay sau đấy đã trở nên cay độc, nói thầm: “Hết chuyện này đến chuyện khác… Độc Cô Nhất Phương, rốt cuộc ngươi muốn làm gì? Ngươi… nếu thực sự có toan tính đó, thì tại sao mấy năm nay lại dễ dàng bị sư phụ dồn vào đường cùng như thế? Vô Song Thành… quả nhiên không thể xem thường…” Chỉ trong chớp mắt, nơi góc phố đã chẳng còn bóng dáng thiếu niên đó nữa.
…
Cuối cùng Nhiếp Phong cũng đến được gian nhà ngói đỏ. Cậu hớt hải gọi cửa: “Mau mở cửa, có ai không? Tiểu Nam sắp nguy rồi…”
Cánh cửa cũ kĩ sắp bị Nhiếp Phong gõ đến dập nát kêu “kẽo kẹt” rồi từ từ mở ra. Vừa liếc nhìn, cậu không khỏi thảng thốt. Thật không ngờ cô gái phía sau cánh cửa lại là… Minh Nguyệt!
Thấp thoáng sau khe cửa cũ mòn là thiếu nữ với dung mạo làm rung động lòng người. Sự kết hợp mới kỳ quặc làm sao, tưởng như giai nhân bước ra từ tranh cổ ngàn năm.
Người chị của Tiểu Nam và Tiểu Miêu chính là Minh Nguyệt sao? Thế đại phu kia… là ai?
Nhiếp Phong còn chưa lên tiếng, Minh Nguyệt đã thấy ngay hai đứa trẻ nằm trong lòng cậu, hốt hoảng hô lên: “Mau theo ta vào trong, vết thương của chúng không thể để lâu hơn nữa.”
Nhiếp Phong vội vàng theo nàng vào phòng, đặt anh em Tiểu Nam lên giường. Minh Nguyệt cũng không nói thêm gì. Trán Tiểu Miêu đã ngừng chảy máu, không còn nguy hiểm đến tính mạng, nên việc cấp bách lúc này của nàng là cấp cứu cho Tiểu Nam bị thương nặng nhất.
Nhiếp Phong thấy Minh Nguyệt chỉ loáng cái đã tháo hết vải vụn cậu quấn quanh hai tay của Tiểu Nam, rồi lập tức lấy nước thuốc rửa vết thương cho cậu bé, động tác cực kỳ nhanh nhẹn, thành thạo, như thể một cao thủ thâm sâu khó lường, khiến cậu không khỏi cảm thán.
Có lẽ nàng ấy thực sự là một cao thủ thâm sâu khó lường… Một thiếu nữ xinh đẹp tuyệt trần chỉ mới mười bốn tuổi mà lại có y thuật cao siêu nhường này… Rõ ràng nàng ấy là một đại phu giỏi, tại sao lại phải mãi nghệ ở chợ đêm?
Mặc dù có rất nhiều nghi vấn, nhưng bây giờ Nhiếp Phong chỉ quan tâm đến Tiểu Nam đang trong tình trạng nguy kịch. Cậu thoáng thấy vẻ ủ rũ hiện lên trên mặt Minh Nguyệt, trong lòng chợt có dự cảm chẳng lành, vội hỏi: “Minh Nguyệt cô nương, Tiểu Nam… thế nào rồi?
Minh Nguyệt nhìn cậu đăm đăm, khẽ nói: “Tuy cậu bé giữ được tính mạng, nhưng… hai cánh tay này… đã quá muộn rồi…”
Nhiếp Phong sửng sốt, chợt hỏi: “Cô nói là quá muộn? Chẳng lẽ vốn có hy vọng cứu chữa?”
Minh Nguyệt chầm chậm gật đầu: “Phải. Ta có phương pháp nối gân cốt bí truyền do tổ tiên để lại, chỉ cần tay chân không đứt rời quá lâu thì có thể dùng phương pháp đó để nối lại…”
Nhiếp Phong thầm kinh ngạc, vội hỏi: “Thế bây giờ thì sao?”
“Tiểu Nam…” Minh Nguyệt ngập ngừng, rồi bỗng nhìn chằm chằm vào Nhiếp Phong, hỏi: “Nếu ta nói là ta có thể dùng hai thốn gân mạch của công tử để nối lại đôi tay cho Tiểu Nam, công tử có bằng lòng không?”
Nhiếp Phong nói ngay chẳng cần nghĩ ngợi: “Minh Nguyệt cô nương, ta đương nhiên sẵn lòng. Cô hãy mau làm đi.”
Minh Nguyệt nhìn đăm đăm vào gương mặt kiên định của cậu, đôi mắt long lanh như ánh trăng chiếu rọi lòng sông, làm xao xuyến cõi lòng. Nàng hỏi với vẻ thăm dò: “Nhiếp đại ca, hy sinh hai thốn gân mạch không phải chuyện nhỏ, chỉ cần một sai lệch nhỏ cũng có thể khiến tay huynh tàn phế, huynh… thực sự không sợ sao?”
Nhiếp Phong thản nhiên đáp: “Nếu hy sinh hai thốn gân mạch là có thể xoay chuyển cuộc đời của một đứa bé, thì ta không sợ. Huống chi, Tiểu Nam đã là đồ đệ của ta rồi.”
Nghe vậy, Minh Nguyệt sững người: “Gì cơ? Nhiếp đại ca, huynh nhận Tiểu Nam làm đồ đệ ư? Huynh… biết võ công?”
Rốt cuộc là biết rồi còn hỏi hay thực sự không biết?
Nhiếp Phong vẫn chẳng đổi nét mặt: “Đúng vậy.”
Minh Nguyệt nói vẻ vẻ vô cùng nghiêm túc: “Vậy thì ta càng không thể để huynh làm chuyện này. Nhiếp đại ca, một thốn gân mạch một thành công lực, huynh hy sinh hai thốn gân mạch tương đương với việc bị phế mất hai thành công lực đấy!”
Nhưng Nhiếp Phong lại kiên quyết nói: “Minh Nguyệt cô nương, tại hạ không cho rằng đây là hy sinh. Chỉ hai thành công lực thôi đã có thể đổi lấy hai tay, thậm chí cả cuộc đời của một đứa trẻ, thực sự rất đáng giá…”
Minh Nguyệt nhìn cậu đăm đăm, dường như muốn nhìn cho thật rõ người này. Mãi một lúc sau, nàng cuối cùng cũng mỉm cười, dung nhan yêu kiều như tiên nữ giáng trần. Nàng cất tiếng lanh lảnh: “Được! Nhiếp đại ca, ta xin thay mặt Tiểu Nam cảm tạ huynh…” Lời này có mấy phần nhẹ nhõm, mấy phần long trọng, và cả… đôi chút tình cảm chẳng thể nói rõ.
“Chúng ta bắt đầu thôi!”
Nhiếp Phong chẳng hề do dự uống hết thuốc tê rồi chìm vào giấc ngủ. Nhìn nửa bên mặt tuấn tú ôn hòa sau khi đã say giấc, Minh Nguyệt bỗng siết chặt hai tay, đôi mắt trong trẻo như mặt hồ gợn sóng. Nàng nhẹ nhàng cúi xuống, đặt một nụ hôn khẽ lên trán Nhiếp Phong, thì thầm: “Sao lại có người… ngốc thế này? Chẳng cần hai thốn gân mạch của huynh, ta cũng có thể cứu Tiểu Nam… Haiz… Xin lỗi…”
Minh Nguyệt trầm mặc hồi lâu, cuối cùng rút từ cạnh giường ra một cái hộp, lấy ra một bình sứ trắng to bằng lòng bàn tay và một con dao găm bảy tấc mỏng tang mà sắc bén. Nàng đặt bình sứ xuống mép giường, nhấc tay Nhiếp Phong lên, nhắm thẳng miệng bình, dùng dao khía một đường. Thế này đâu phải nối gân cốt, mà giống như…
Đúng lúc đó, ngoài phòng bỗng truyền tới tiếng kiếm xé gió. Một thanh kiếm mỏng luồn vào trong như con rắn, lao thẳng tới con dao găm bảy tấc. “Keng” một tiếng, Minh Nguyệt nghiêng người nhảy bật ra chỗ cách giường một trượng, nhìn chằm chằm thiếu niên xông vào qua cửa sổ, nay đang đứng bên giường. Hai người nhìn nhau với vẻ mặt nghiêm nghị, khí thế không ngừng gia tăng.
Minh Nguyệt nghiêm mặt nhìn thiếu niên phía đối diện: “Ngươi là… Đoạn Lãng?”
Đoạn Lãng thoáng biến sắc, nhưng không trả lời, chỉ hơi cúi đầu liếc Nhiếp Phong đang ngủ say, nắm chặt kiếm trong tay, đáy mắt bừng lên sát khí khiếp người.
Đôi mắt Minh Nguyệt loáng qua tia sáng, nhìn không thấu tâm tư. Nàng vẫn nói với vẻ điềm nhiên: “Nếu đã cùng tới đây… thì chỉ có thể… cùng ở lại…”
Tức thì, bóng kiếm giao tranh!