Truyền Thuyết Hùng Bá - Trang 3
Chương 72
Dịch: Mạc Nguyệt
“Nghe nói Khuynh Thành Chi Luyến là tên một tuyệt chiêu vô địch…”
“Trong lịch sử, chiêu thức này chỉ xuất hiện đúng một lần rồi tuyệt tích, nhoáng lên một cái mà có thể đánh đổ cả thành…”
“Nghe nói người sử dụng chiêu Khuynh Thành Chi Luyến này chính là người được xưng tụng là ‘Võ Thánh’ lúc bấy giờ…”
“Người viết bốn chữ ‘Khuynh Thành Chi Luyến’ bằng máu của các mật thám chẳng lẽ muốn dùng chiêu thức này hù dọa Thiên Hạ Hội?”
“Rốt cuộc đó là ai?”
“Người đó thực sự có thể sử dụng tuyệt chiêu Khuynh Thành Chi Luyến sao?”
“Người đó và Vô Song Thành có quan hệ gì?”
“Khuynh Thành Chi Luyến… rốt cuộc có uy lực lớn đến nhường nào?”
…
Nhiếp Phong vừa suy ngẫm về một vài manh mối và suy đoán sư phụ nói với cậu trước lúc lên đường, vừa dùng khinh công tuyệt diệu Độc Bộ Võ Lâm chạy đến Vô Song Thành. Có thể khẳng định rằng kẻ chủ mưu bí ẩn đứng sau Vô Song Thành có mối quan hệ mật thiết với Võ Thánh trong lời đồn. Hơn nữa, sáu mật thám của Thiên Hạ Hội đều chết tại miếu Võ Thánh trong Vô Song Thành. Hiển nhiên, muốn tìm hiểu rõ uẩn khúc đằng sau chuyện này thì phải đến miếu Võ Thánh điều tra tỉ mỉ một phen.
Trong lúc Nhiếp Phong trầm tư, Vô Song Thành đã dần hiện ra trước mắt. Sau ba ngày ba đêm di chuyển hết tốc lực, cuối cùng Nhiếp Phong đã vào đến địa phận thuộc quản lý của Vô Song Thành. Đây cũng là chốn dung thân cuối cùng còn sót lại của chúng. Không lâu nữa, trận quyết chiến được người người mong đợi sẽ diễn ra tại đây.
Nhiếp Phong không vội vào thành, mà nấp trong rừng cây bí ẩn cách cửa thành Vô Song Thành năm mươi trượng để theo dõi tình hình xung quanh.
Dù cách xa đích đến năm mươi trượng, Nhiếp Phong vẫn có thể nhìn rõ mọi cảnh vật. Lúc này đã gần đến hoàng hôn, mặt trời ngả dần về phía tây. Vô Song Thành được canh gác nghiêm ngặt, người ra vào thành rất ít. Chỉ có một vài người trông như nông dân của các xóm núi lân cận gánh mấy cái thúng trống không chầm chậm ra khỏi thành, chắc là mấy người buôn rau cỏ đang trên đường về nhà. Ngoài thành có các đệ tử của Vô Song Thành đứng gác, nhìn bề ngoài cũng biết là đệ tử tinh anh được thành chủ Độc Cô Nhất Phương dốc lòng bồi dưỡng. Ai nấy đều có cặp mắt sáng quắc theo dõi sát sao cổng thành và mỗi một người ra vào thành, một khi phát hiện điều gì bất thường sẽ ra tay ngay, không hề chần chừ. Bởi vì bọn họ hiểu rằng lúc này đang là thời khắc sống còn của Vô Song Thành.
Mặc dù nơi đó được canh gác nghiêm ngặt, nhưng đối với Nhiếp Phong, lẻn vào trong cũng chẳng phải chuyện khó khăn. Thông thường, nếu muốn lén lút đột nhập vào nơi nào đó, người bình thường sẽ cải trang thành một người khác, ví dụ người trẻ thì cải trang thành người già, người già lại muốn nhuộm tóc cho mình trông trẻ ra để người ngoài khó đoán tuổi tác, rồi bôi bôi vẽ vẽ lên mặt khiến mình trở nên xấu xí, dị hợm, hoặc thành một người tầm thường có nốt ruồi to tổ chảng trên mặt, trông còn dễ gây chú ý hơn khi không cải trang. Nhưng họ đều có chung một mục đích, đấy là không để người khác nhận ra mình.
Cao thủ võ lâm thì khác, họ không cần bận tâm người khác có nhận ra mình hay không, bởi họ sẽ không cho người ta cơ hội đó. Giống như Nhiếp Phong bây giờ vậy, cậu chỉ cần dùng khinh công lướt nhẹ một cái là có thể vào bên trong giống như một cơn gió vô tình “thổi” vào cổng thành. Các đệ tử canh gác chẳng ai phát hiện ra, họ chỉ cảm thấy tự dưng có làn gió nhẹ phất qua mà thôi.
…
Trời tối dần, màn đêm từ từ kéo đến, bao trùm toàn bộ Vô Song Thành.
Trong thành, ngoại trừ phủ Vô Song nguy nga tráng lệ của thành chủ Độc Cô Nhất Phương tọa lạc chính giữa thành, gần trăm mẫu đất còn lại đều là phố lớn ngõ nhỏ đan cài chằng chịt, bảy phần mười số dân sống ở đây là môn đồ của Độc Cô Nhất Phương, ba phần còn lại là người dân bình thường.
Dù hiện tại thế cục giữa Vô Song Thành và Thiên Hạ Hội đã đến thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, cư dân trong thành vẫn chẳng bị ảnh hưởng nhiều. Mấy chuyện lớn lao trong thiên hạ thì liên quan gì đến dân chúng tầm thường như họ? Ngoài mấy tên ma đầu mất hết nhân tính, làm gì có ai cố tình tàn sát bá tánh bình dân. Hiển nhiên, bang chủ Thiên Hạ Hội không phải một ma đầu như thế, vậy họ cần gì phải lo lắng nữa?
Hiện tại đang là giờ ăn tối, hầu hết người dân trong thành đã trở về nhà ăn cơm, đương nhiên cũng có nhiều người thích tụ tập ở các quán ăn náo nhiệt nhất trong thành, nên chợ đêm ở Vô Song Thành cũng rất náo nhiệt. Các tụ điểm ăn chơi nhảy múa đều có khách khứa ra vào tấp nập, quán Sở lầu Tần hay các sòng bài lúc nào cũng vang vọng tiếng nhạc và tiếng reo hò. Chốc chốc lại có tiếng rao mời chào của những gánh hàng quà vặt. Còn có người mãi nghệ trên đường, tiếng đàn cùng tiếng hát uyển chuyển vang tận mấy con phố.
Giữa dòng người qua lại tấp nập, có một bóng người đội nón tre lướt qua. Đó chính là Nhiếp Phong.
Sau khi dùng tốc độ nhanh như gió cuốn lướt qua các thị vệ canh gác ở cổng thành, Nhiếp Phong đã mua một chiếc nón, dạo quanh phố lớn ngõ nhỏ để tìm hiểu tình hình trong thành. Đây là lần đầu tiên cậu đặt chân đến Vô Song Thành. Nơi đây tuy không sánh bằng thành Thiên Ấm, nhưng cũng rất náo nhiệt. Thấy cuộc sống của người dân nơi đây không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến giữa hai môn phái lớn, cậu đã yên tâm hơn đôi chút.
Nhưng Nhiếp Phong nhanh chóng phát hiện ra sự phân chia giai cấp rạch ròi ở Vô Song Thành. Những người ngồi ăn cơm uống rượu trong các hàng quán đều mặc trang phục đệ tử của Vô Song Thành. Có thể dễ dàng nhận thấy, ở đây tồn tại sự khác biệt giàu nghèo cực lớn, người giàu là những người thuộc gia tộc Độc Cô và Vô Song Thành, còn người nghèo chính là những người dân thường, họ không có tiền để đi ăn ở tiệm, chỉ có thể lang thang ngoài đường, bảo sao lại có người đi hát rong để mưu sinh.
Qua quan sát tỉ mỉ, Nhiếp Phong phát hiện những đệ tử Vô Song Thành ngồi trong quán chè chén say sưa đều thấp thoáng vẻ bồn chồn, lo âu ở giữa hai hàng mày, còn những người dân nghèo hát rong, mãi nghệ hay bán quà vặt ngoài đường lại rất bình thản, hiền hòa. Chuyện đời là vậy, người có được giàu sang thì sợ mất đi giàu sang, người chẳng có gì thì sống thong dong, tự tại.
Người hát rong vẫn tiếp tục hát trong tiếng nhạc đệm của đàn tỳ bà. Cách đám đông tấp nập và màn đêm đen, Nhiếp Phong nhìn thấy ở góc phố âm u có một thiếu nữ chừng hơn mười tuổi mặc váy dài màu thiên thanh bằng vải thô đang ôm đàn tỳ bà khe khẽ ngâm nga. Vì chỗ đó quá tối nên cậu không nhìn rõ tướng mạo cô gái nọ, chỉ nghe thấy tiếng hát uyển chuyển lay động lòng người, vậy mà lại rất ít người đứng xem.
Khúc nhạc vừa dứt, người dân đồng loạt tản đi. Nhiếp Phong đứng cách đó mấy trượng, không kịp móc bạc. Cậu nhìn chằm chằm dưới đất, chỉ thấy vỏn vẹn hai đồng lẻ. Tình người bạc bẽo đến thế sao?
Thực ra không phải vậy, những người đứng xem đều rất nghèo, nên tiêu cái gì cũng phải tính toán chi li, có người ném cho hai đồng đã là may mắn lắm rồi. Nơi này đâu phải thành Thiên Âm, cũng không phải người dân ở tòa thành nào cũng giàu có, sung túc như người dân thành Thiên Ấm.
Chờ dòng người tản đi hết, thiếu nữ lẳng lặng cúi đầu, dường như đang nhìn đăm đăm vào hai đồng lẻ rơi trên đất. Nàng chẳng hề có vẻ oán trách hay buồn tủi, mà giống như là cảm thông. Nàng cúi người nhặt chúng lên… Âu cũng chỉ là kiếp sống của người nghèo mà thôi.
Lúc cúi xuống nhặt tiền, nàng bỗng khựng lại, dường như phát hiện ra điều gì đó.
Thì ra trong góc phố âm u còn có một bà lão ăn mày ngồi co ro, dường như đã thiếp đi. Trong cái bát ăn xin của bà lão chẳng có một đồng nào. Thật tội nghiệp!
Thiếu nữ nhìn hai đồng tiền trong tay rồi lại nhìn bát ăn xin của bà lão, chẳng hề chần chừ thả nhẹ hai đồng tiền mình vất vả lắm mới kiếm được vào trong bát. Nàng làm rất nhẹ nhàng, chẳng biết là sợ đánh thức bà lão hay vì không muốn người khác biết việc thiện của mình.
Tất cả đều được thu trọn vào đôi mắt của Nhiếp Phong đang đứng cách đó vài trượng. Trái tim cậu bỗng rung động. Thật là một cô gái tốt bụng, cho người khác mấy đồng tiền ít ỏi của mình, lại còn không muốn người ta biết… Mà hai đồng ấy cũng chỉ đủ mua một bát mì chay. Bây giờ đến cơ hội duy nhất để được ăn mì nàng cũng từ bỏ rồi… Chắc trong người nàng chẳng còn đồng nào, nếu không sao lại phải đi hát rong ngoài đường?
Nghĩ đến đây, Nhiếp Phong vói tay vào lòng…
Thiếu nữ nọ vẫn một mực cúi đầu, nàng đang định cầm đàn vội vàng rời đi thì chợt thấy một đôi giày gấm đen cùng một đôi tay vững vàng nâng thỏi bạc xuất hiện trước mắt mình, theo đó là giọng nói ôn hòa của một thiếu niên: “Cô nương, vừa rồi tại hạ chìm đắm trong tiếng ca của cô nương, quên cả tặng bạc. Đây là chút lòng thành của tại hạ…”
Chủ nhân giọng nói này chính là Nhiếp Phong.
Thiếu nữ nọ sửng sốt, có lẽ nàng không ngờ lại có người khảng khái thế này, dùng bạc giúp nàng thoát cảnh khốn khó. Nhưng nàng không nhận, chỉ cúi gằm xuống như thể đang ngượng ngùng, làm Nhiếp Phong không nhìn rõ dung mạo. Nàng cất giọng nhu mì: “Ban nãy khúc dừng người tản, lúc này tiểu nữ giọng yếu sức cạn, thực sự không thể hát nữa. Thiếu hiệp nhân hậu, tiểu nữ hổ thẹn, không dám nhận. Chi bằng để thỏi bạc này cho bà lão đằng kia, có lẽ bà ấy sẽ cần số tiền này hơn tiểu nữ…” Đến tận lúc này, nàng vẫn lo lắng cho bà lão ăn xin. Nhiếp Phong nghe vậy không khỏi dao động, bèn đi về phía bà lão, nhẹ nhàng đặt thỏi bạc vào bát. Bà lão vẫn ngủ say, chẳng hay biết gì.
Nhưng sau đấy, Nhiếp Phong móc ra một thỏi bạc nữa, dịu dàng khuyên nhủ thiếu nữ: “Chúng ta tình cờ gặp gỡ, tại hạ chỉ muốn giúp cô nương thoát cảnh khốn khó thôi, không có ý đồ nào khác. Mong cô nương vui lòng nhận cho.”
Thiếu nữ ngạc nhiên, dường như cảm động trước sự nhiệt tình của Nhiếp Phong. Không biết vì không tiện từ chối tiếp, hay vì lý do nào khác, cuối cùng nàng cũng đưa tay nhận lấy thỏi bạc, nói với giọng trong trẻo: “Vậy… xin đa tạ thiếu hiệp… Chẳng hay quý tính đại danh của thiếu hiệp là?
Nhiếp Phong vốn định nói bừa một cái tên cho qua chuyện, vì dù sao chuyến này cậu cũng đang âm thầm đột nhập vào Vô Song Thành. Nhưng cô gái này tốt bụng quá, cậu thầm tán thưởng, cảm thấy phải thành thực với người ta, nên cuối cùng vẫn nói thật: “Tại hạ Nhiếp Phong.”
Thiếu nữ thì thầm nhắc lại: “Nhiếp Phong…” Sau đấy nàng cúi đầu, giấu mặt sau làn tóc mây, chẳng nói gì nữa.
Nhiếp Phong tò mò hỏi: “Đúng rồi, xin hỏi phương danh của cô nương là gì?”
Thiếu nữ khựng lại một lúc, dường như đang cân nhắc có nên nói ra tên của mình không. Nhưng có lẽ nàng cảm động trước tấm lòng chân thành, nhiệt tình giúp đỡ người khác của Nhiếp Phong, rồi lại muốn xem thiếu niên xa lạ mà tốt bụng này rốt cuộc có tướng mạo thế nào, nên không cầm lòng được khẽ ngẩng lên, liếc vội một cái rồi thỏ thẻ đáp: “Ta là… Minh Nguyệt.”
Nhiếp Phong sửng sốt. Cô gái này mới chỉ mười bốn, mười lăm tuổi mà dung nhan khuynh quốc khuynh thành, mày liễu mắt hạnh, làn da trắng nõn mịn màng, mũi thon môi hồng, mang vẻ đáng yêu, non nớt. Lớn thêm vài tuổi nữa, có lẽ nàng thực sự sẽ là tuyệt thế hồng nhan hại nước hại dân.
Đôi mắt thiếu nữ như biết nói, lấp lánh sóng mắt dịu dàng, chỉ một ánh nhìn cũng đủ khiến người ta không thể cầm lòng mà chìm đắm trong đó, rồi lại tựa trăng sáng trên chín tầng trời, mang lại cảm giác trong trẻo, lạnh lẽo, cô liêu, làm người ta không dám trêu đùa.
Đúng là… rất hợp với tên nàng… Minh Nguyệt.
Mãi đến khi thiếu nữ rảo bước đi xa, khuất bóng sau ngã rẽ, Nhiếp Phong mới giật mình hoàn hồn, khẽ lắc đầu. Ban nãy chỉ nhìn thấy diện mạo cô gái kia một thoáng thôi mà tim cậu đã không kìm được đập nhanh hơn nửa nhịp. Quả nhiên là mỹ nhân như ngọc làm say đắm lòng người sao?
Nhiếp Phong bật cười tự giễu, khẽ than thở cho khả năng tự chủ của mình, rồi chợt ngẩng đầu nhìn vầng trăng treo cao giữa màn đêm mịt mùng, ánh mắt hơi mê mang. Minh Nguyệt… vậy mà lại có mấy phần giống với mỹ nhân tuyệt đại khuynh thành nằm sâu trong ký ức của Nhiếp Phong… Nhưng tâm tư tính cách của họ thì khác biệt như trời Nam đất Bắc… Nếu có nửa phần giống nhau, liệu năm ấy có…
Bóng dáng mỹ nhân dần xa xăm, chỉ còn tiếng thở dài khe khẽ dưới ánh trăng bạc.
Nhiếp Phong không nhận ra rằng trong bóng tối khắp bốn phương tám hướng, có đến mấy cặp mắt đang nhìn mình chằm chằm. Trong đó, có một nơi vang lên tiếng làu bàu hờn trách: “Thấy người đẹp một cái là không dời mắt được… Lại còn cho người ta biết tên… Hừ… bỏ quên ta tận đâu đâu rồi… Đúng là đáng ghét!
Muôn người dưới trăng thâu, rốt cuộc vầng trăng chiếu rọi lòng ai?
- -----oOo------
“Nghe nói Khuynh Thành Chi Luyến là tên một tuyệt chiêu vô địch…”
“Trong lịch sử, chiêu thức này chỉ xuất hiện đúng một lần rồi tuyệt tích, nhoáng lên một cái mà có thể đánh đổ cả thành…”
“Nghe nói người sử dụng chiêu Khuynh Thành Chi Luyến này chính là người được xưng tụng là ‘Võ Thánh’ lúc bấy giờ…”
“Người viết bốn chữ ‘Khuynh Thành Chi Luyến’ bằng máu của các mật thám chẳng lẽ muốn dùng chiêu thức này hù dọa Thiên Hạ Hội?”
“Rốt cuộc đó là ai?”
“Người đó thực sự có thể sử dụng tuyệt chiêu Khuynh Thành Chi Luyến sao?”
“Người đó và Vô Song Thành có quan hệ gì?”
“Khuynh Thành Chi Luyến… rốt cuộc có uy lực lớn đến nhường nào?”
…
Nhiếp Phong vừa suy ngẫm về một vài manh mối và suy đoán sư phụ nói với cậu trước lúc lên đường, vừa dùng khinh công tuyệt diệu Độc Bộ Võ Lâm chạy đến Vô Song Thành. Có thể khẳng định rằng kẻ chủ mưu bí ẩn đứng sau Vô Song Thành có mối quan hệ mật thiết với Võ Thánh trong lời đồn. Hơn nữa, sáu mật thám của Thiên Hạ Hội đều chết tại miếu Võ Thánh trong Vô Song Thành. Hiển nhiên, muốn tìm hiểu rõ uẩn khúc đằng sau chuyện này thì phải đến miếu Võ Thánh điều tra tỉ mỉ một phen.
Trong lúc Nhiếp Phong trầm tư, Vô Song Thành đã dần hiện ra trước mắt. Sau ba ngày ba đêm di chuyển hết tốc lực, cuối cùng Nhiếp Phong đã vào đến địa phận thuộc quản lý của Vô Song Thành. Đây cũng là chốn dung thân cuối cùng còn sót lại của chúng. Không lâu nữa, trận quyết chiến được người người mong đợi sẽ diễn ra tại đây.
Nhiếp Phong không vội vào thành, mà nấp trong rừng cây bí ẩn cách cửa thành Vô Song Thành năm mươi trượng để theo dõi tình hình xung quanh.
Dù cách xa đích đến năm mươi trượng, Nhiếp Phong vẫn có thể nhìn rõ mọi cảnh vật. Lúc này đã gần đến hoàng hôn, mặt trời ngả dần về phía tây. Vô Song Thành được canh gác nghiêm ngặt, người ra vào thành rất ít. Chỉ có một vài người trông như nông dân của các xóm núi lân cận gánh mấy cái thúng trống không chầm chậm ra khỏi thành, chắc là mấy người buôn rau cỏ đang trên đường về nhà. Ngoài thành có các đệ tử của Vô Song Thành đứng gác, nhìn bề ngoài cũng biết là đệ tử tinh anh được thành chủ Độc Cô Nhất Phương dốc lòng bồi dưỡng. Ai nấy đều có cặp mắt sáng quắc theo dõi sát sao cổng thành và mỗi một người ra vào thành, một khi phát hiện điều gì bất thường sẽ ra tay ngay, không hề chần chừ. Bởi vì bọn họ hiểu rằng lúc này đang là thời khắc sống còn của Vô Song Thành.
Mặc dù nơi đó được canh gác nghiêm ngặt, nhưng đối với Nhiếp Phong, lẻn vào trong cũng chẳng phải chuyện khó khăn. Thông thường, nếu muốn lén lút đột nhập vào nơi nào đó, người bình thường sẽ cải trang thành một người khác, ví dụ người trẻ thì cải trang thành người già, người già lại muốn nhuộm tóc cho mình trông trẻ ra để người ngoài khó đoán tuổi tác, rồi bôi bôi vẽ vẽ lên mặt khiến mình trở nên xấu xí, dị hợm, hoặc thành một người tầm thường có nốt ruồi to tổ chảng trên mặt, trông còn dễ gây chú ý hơn khi không cải trang. Nhưng họ đều có chung một mục đích, đấy là không để người khác nhận ra mình.
Cao thủ võ lâm thì khác, họ không cần bận tâm người khác có nhận ra mình hay không, bởi họ sẽ không cho người ta cơ hội đó. Giống như Nhiếp Phong bây giờ vậy, cậu chỉ cần dùng khinh công lướt nhẹ một cái là có thể vào bên trong giống như một cơn gió vô tình “thổi” vào cổng thành. Các đệ tử canh gác chẳng ai phát hiện ra, họ chỉ cảm thấy tự dưng có làn gió nhẹ phất qua mà thôi.
…
Trời tối dần, màn đêm từ từ kéo đến, bao trùm toàn bộ Vô Song Thành.
Trong thành, ngoại trừ phủ Vô Song nguy nga tráng lệ của thành chủ Độc Cô Nhất Phương tọa lạc chính giữa thành, gần trăm mẫu đất còn lại đều là phố lớn ngõ nhỏ đan cài chằng chịt, bảy phần mười số dân sống ở đây là môn đồ của Độc Cô Nhất Phương, ba phần còn lại là người dân bình thường.
Dù hiện tại thế cục giữa Vô Song Thành và Thiên Hạ Hội đã đến thời khắc ngàn cân treo sợi tóc, cư dân trong thành vẫn chẳng bị ảnh hưởng nhiều. Mấy chuyện lớn lao trong thiên hạ thì liên quan gì đến dân chúng tầm thường như họ? Ngoài mấy tên ma đầu mất hết nhân tính, làm gì có ai cố tình tàn sát bá tánh bình dân. Hiển nhiên, bang chủ Thiên Hạ Hội không phải một ma đầu như thế, vậy họ cần gì phải lo lắng nữa?
Hiện tại đang là giờ ăn tối, hầu hết người dân trong thành đã trở về nhà ăn cơm, đương nhiên cũng có nhiều người thích tụ tập ở các quán ăn náo nhiệt nhất trong thành, nên chợ đêm ở Vô Song Thành cũng rất náo nhiệt. Các tụ điểm ăn chơi nhảy múa đều có khách khứa ra vào tấp nập, quán Sở lầu Tần hay các sòng bài lúc nào cũng vang vọng tiếng nhạc và tiếng reo hò. Chốc chốc lại có tiếng rao mời chào của những gánh hàng quà vặt. Còn có người mãi nghệ trên đường, tiếng đàn cùng tiếng hát uyển chuyển vang tận mấy con phố.
Giữa dòng người qua lại tấp nập, có một bóng người đội nón tre lướt qua. Đó chính là Nhiếp Phong.
Sau khi dùng tốc độ nhanh như gió cuốn lướt qua các thị vệ canh gác ở cổng thành, Nhiếp Phong đã mua một chiếc nón, dạo quanh phố lớn ngõ nhỏ để tìm hiểu tình hình trong thành. Đây là lần đầu tiên cậu đặt chân đến Vô Song Thành. Nơi đây tuy không sánh bằng thành Thiên Ấm, nhưng cũng rất náo nhiệt. Thấy cuộc sống của người dân nơi đây không bị ảnh hưởng bởi cuộc chiến giữa hai môn phái lớn, cậu đã yên tâm hơn đôi chút.
Nhưng Nhiếp Phong nhanh chóng phát hiện ra sự phân chia giai cấp rạch ròi ở Vô Song Thành. Những người ngồi ăn cơm uống rượu trong các hàng quán đều mặc trang phục đệ tử của Vô Song Thành. Có thể dễ dàng nhận thấy, ở đây tồn tại sự khác biệt giàu nghèo cực lớn, người giàu là những người thuộc gia tộc Độc Cô và Vô Song Thành, còn người nghèo chính là những người dân thường, họ không có tiền để đi ăn ở tiệm, chỉ có thể lang thang ngoài đường, bảo sao lại có người đi hát rong để mưu sinh.
Qua quan sát tỉ mỉ, Nhiếp Phong phát hiện những đệ tử Vô Song Thành ngồi trong quán chè chén say sưa đều thấp thoáng vẻ bồn chồn, lo âu ở giữa hai hàng mày, còn những người dân nghèo hát rong, mãi nghệ hay bán quà vặt ngoài đường lại rất bình thản, hiền hòa. Chuyện đời là vậy, người có được giàu sang thì sợ mất đi giàu sang, người chẳng có gì thì sống thong dong, tự tại.
Người hát rong vẫn tiếp tục hát trong tiếng nhạc đệm của đàn tỳ bà. Cách đám đông tấp nập và màn đêm đen, Nhiếp Phong nhìn thấy ở góc phố âm u có một thiếu nữ chừng hơn mười tuổi mặc váy dài màu thiên thanh bằng vải thô đang ôm đàn tỳ bà khe khẽ ngâm nga. Vì chỗ đó quá tối nên cậu không nhìn rõ tướng mạo cô gái nọ, chỉ nghe thấy tiếng hát uyển chuyển lay động lòng người, vậy mà lại rất ít người đứng xem.
Khúc nhạc vừa dứt, người dân đồng loạt tản đi. Nhiếp Phong đứng cách đó mấy trượng, không kịp móc bạc. Cậu nhìn chằm chằm dưới đất, chỉ thấy vỏn vẹn hai đồng lẻ. Tình người bạc bẽo đến thế sao?
Thực ra không phải vậy, những người đứng xem đều rất nghèo, nên tiêu cái gì cũng phải tính toán chi li, có người ném cho hai đồng đã là may mắn lắm rồi. Nơi này đâu phải thành Thiên Âm, cũng không phải người dân ở tòa thành nào cũng giàu có, sung túc như người dân thành Thiên Ấm.
Chờ dòng người tản đi hết, thiếu nữ lẳng lặng cúi đầu, dường như đang nhìn đăm đăm vào hai đồng lẻ rơi trên đất. Nàng chẳng hề có vẻ oán trách hay buồn tủi, mà giống như là cảm thông. Nàng cúi người nhặt chúng lên… Âu cũng chỉ là kiếp sống của người nghèo mà thôi.
Lúc cúi xuống nhặt tiền, nàng bỗng khựng lại, dường như phát hiện ra điều gì đó.
Thì ra trong góc phố âm u còn có một bà lão ăn mày ngồi co ro, dường như đã thiếp đi. Trong cái bát ăn xin của bà lão chẳng có một đồng nào. Thật tội nghiệp!
Thiếu nữ nhìn hai đồng tiền trong tay rồi lại nhìn bát ăn xin của bà lão, chẳng hề chần chừ thả nhẹ hai đồng tiền mình vất vả lắm mới kiếm được vào trong bát. Nàng làm rất nhẹ nhàng, chẳng biết là sợ đánh thức bà lão hay vì không muốn người khác biết việc thiện của mình.
Tất cả đều được thu trọn vào đôi mắt của Nhiếp Phong đang đứng cách đó vài trượng. Trái tim cậu bỗng rung động. Thật là một cô gái tốt bụng, cho người khác mấy đồng tiền ít ỏi của mình, lại còn không muốn người ta biết… Mà hai đồng ấy cũng chỉ đủ mua một bát mì chay. Bây giờ đến cơ hội duy nhất để được ăn mì nàng cũng từ bỏ rồi… Chắc trong người nàng chẳng còn đồng nào, nếu không sao lại phải đi hát rong ngoài đường?
Nghĩ đến đây, Nhiếp Phong vói tay vào lòng…
Thiếu nữ nọ vẫn một mực cúi đầu, nàng đang định cầm đàn vội vàng rời đi thì chợt thấy một đôi giày gấm đen cùng một đôi tay vững vàng nâng thỏi bạc xuất hiện trước mắt mình, theo đó là giọng nói ôn hòa của một thiếu niên: “Cô nương, vừa rồi tại hạ chìm đắm trong tiếng ca của cô nương, quên cả tặng bạc. Đây là chút lòng thành của tại hạ…”
Chủ nhân giọng nói này chính là Nhiếp Phong.
Thiếu nữ nọ sửng sốt, có lẽ nàng không ngờ lại có người khảng khái thế này, dùng bạc giúp nàng thoát cảnh khốn khó. Nhưng nàng không nhận, chỉ cúi gằm xuống như thể đang ngượng ngùng, làm Nhiếp Phong không nhìn rõ dung mạo. Nàng cất giọng nhu mì: “Ban nãy khúc dừng người tản, lúc này tiểu nữ giọng yếu sức cạn, thực sự không thể hát nữa. Thiếu hiệp nhân hậu, tiểu nữ hổ thẹn, không dám nhận. Chi bằng để thỏi bạc này cho bà lão đằng kia, có lẽ bà ấy sẽ cần số tiền này hơn tiểu nữ…” Đến tận lúc này, nàng vẫn lo lắng cho bà lão ăn xin. Nhiếp Phong nghe vậy không khỏi dao động, bèn đi về phía bà lão, nhẹ nhàng đặt thỏi bạc vào bát. Bà lão vẫn ngủ say, chẳng hay biết gì.
Nhưng sau đấy, Nhiếp Phong móc ra một thỏi bạc nữa, dịu dàng khuyên nhủ thiếu nữ: “Chúng ta tình cờ gặp gỡ, tại hạ chỉ muốn giúp cô nương thoát cảnh khốn khó thôi, không có ý đồ nào khác. Mong cô nương vui lòng nhận cho.”
Thiếu nữ ngạc nhiên, dường như cảm động trước sự nhiệt tình của Nhiếp Phong. Không biết vì không tiện từ chối tiếp, hay vì lý do nào khác, cuối cùng nàng cũng đưa tay nhận lấy thỏi bạc, nói với giọng trong trẻo: “Vậy… xin đa tạ thiếu hiệp… Chẳng hay quý tính đại danh của thiếu hiệp là?
Nhiếp Phong vốn định nói bừa một cái tên cho qua chuyện, vì dù sao chuyến này cậu cũng đang âm thầm đột nhập vào Vô Song Thành. Nhưng cô gái này tốt bụng quá, cậu thầm tán thưởng, cảm thấy phải thành thực với người ta, nên cuối cùng vẫn nói thật: “Tại hạ Nhiếp Phong.”
Thiếu nữ thì thầm nhắc lại: “Nhiếp Phong…” Sau đấy nàng cúi đầu, giấu mặt sau làn tóc mây, chẳng nói gì nữa.
Nhiếp Phong tò mò hỏi: “Đúng rồi, xin hỏi phương danh của cô nương là gì?”
Thiếu nữ khựng lại một lúc, dường như đang cân nhắc có nên nói ra tên của mình không. Nhưng có lẽ nàng cảm động trước tấm lòng chân thành, nhiệt tình giúp đỡ người khác của Nhiếp Phong, rồi lại muốn xem thiếu niên xa lạ mà tốt bụng này rốt cuộc có tướng mạo thế nào, nên không cầm lòng được khẽ ngẩng lên, liếc vội một cái rồi thỏ thẻ đáp: “Ta là… Minh Nguyệt.”
Nhiếp Phong sửng sốt. Cô gái này mới chỉ mười bốn, mười lăm tuổi mà dung nhan khuynh quốc khuynh thành, mày liễu mắt hạnh, làn da trắng nõn mịn màng, mũi thon môi hồng, mang vẻ đáng yêu, non nớt. Lớn thêm vài tuổi nữa, có lẽ nàng thực sự sẽ là tuyệt thế hồng nhan hại nước hại dân.
Đôi mắt thiếu nữ như biết nói, lấp lánh sóng mắt dịu dàng, chỉ một ánh nhìn cũng đủ khiến người ta không thể cầm lòng mà chìm đắm trong đó, rồi lại tựa trăng sáng trên chín tầng trời, mang lại cảm giác trong trẻo, lạnh lẽo, cô liêu, làm người ta không dám trêu đùa.
Đúng là… rất hợp với tên nàng… Minh Nguyệt.
Mãi đến khi thiếu nữ rảo bước đi xa, khuất bóng sau ngã rẽ, Nhiếp Phong mới giật mình hoàn hồn, khẽ lắc đầu. Ban nãy chỉ nhìn thấy diện mạo cô gái kia một thoáng thôi mà tim cậu đã không kìm được đập nhanh hơn nửa nhịp. Quả nhiên là mỹ nhân như ngọc làm say đắm lòng người sao?
Nhiếp Phong bật cười tự giễu, khẽ than thở cho khả năng tự chủ của mình, rồi chợt ngẩng đầu nhìn vầng trăng treo cao giữa màn đêm mịt mùng, ánh mắt hơi mê mang. Minh Nguyệt… vậy mà lại có mấy phần giống với mỹ nhân tuyệt đại khuynh thành nằm sâu trong ký ức của Nhiếp Phong… Nhưng tâm tư tính cách của họ thì khác biệt như trời Nam đất Bắc… Nếu có nửa phần giống nhau, liệu năm ấy có…
Bóng dáng mỹ nhân dần xa xăm, chỉ còn tiếng thở dài khe khẽ dưới ánh trăng bạc.
Nhiếp Phong không nhận ra rằng trong bóng tối khắp bốn phương tám hướng, có đến mấy cặp mắt đang nhìn mình chằm chằm. Trong đó, có một nơi vang lên tiếng làu bàu hờn trách: “Thấy người đẹp một cái là không dời mắt được… Lại còn cho người ta biết tên… Hừ… bỏ quên ta tận đâu đâu rồi… Đúng là đáng ghét!
Muôn người dưới trăng thâu, rốt cuộc vầng trăng chiếu rọi lòng ai?
- -----oOo------