Trường Ninh Tướng Quân - Trang 3
Chương 61
Có câu, trộm được bèo trôi nửa ngày nhàn.
Nhưng, cuối cùng Thúc Thận Huy vẫn bỏ mấy ngày “nhàn” “trộm” chưa dùng xong, trong đêm mưa to như trút nước kia, chưa đợi nhỏ đi, đã lên đường đi Giang Đô.
Bàn tay cản kiếm kia, sau đó được Lưu Hướng băng bó lại lần nữa. Dù đã cầm máu song vết thương vẫn co rút đau từng đợt. Thật giống như trái tim y.
Sau khi lên đường, cả người y vẫn đắm chìm trong cảm xúc chuyện đêm qua mang lại, hoàn toàn không cách nào tự kềm chế.
Mỗi lần nàng tìm hòa thượng đến cùng là nói chuyện gì? Ở chỗ hắn ta, mới có thể thấy yên tâm, ngủ được?
Nàng thế mà vì người khác, quỳ trước y, thậm chí còn quyết tuyệt cắt tóc!
Nhưng, dù là vậy, cuối cùng nàng đứng lên, giả vờ hỏi một tiếng tay y có đau không, có lẽ y cũng sẽ còn giữ lại một tia tình cảm cuối cùng dành cho nàng ấy.
Còn giờ đây, mất hết cả rồi!
Cứ vậy đi, nàng có thể quay về Nhạn Môn.
Câu kia, cuối cùng y không chỉ là nói cho cô, mà cũng là nói cho chính mình.
Cả người y bị tâm tình ấy giày vò, khi thì phẫn uất, khi thì uể oải, khi thì hối hận, khi thì khinh thường, cuối cùng, y thấy lòng mình đã hoàn toàn nguội lạnh. Cứ thế, mấy hôm sau, mãi đến khi vào đến Giang Đô, cuối cùng mới có thể dời lực chú ý, bắt đầu bận rộn chuyện của mình.
Hoài Dương được trời ưu đãi về địa lý và sản vật, là vùng đất thiên hạ phồn thịnh xưa nay. Hôm nay càng may mắn hơn, trở thành trạm chính Nhiếp Chính Vương đương triều khi nam tuần. Theo tin báo trước đó, mấy hôm nữa đoàn người của ngài sẽ đến. Từ sớm, mấy ngày qua, Quận trưởng thích sứ và các quan huyện bản địa đã bận rộn chuẩn bị tiếp giá. Bọn họ nào biết, Nhiếp Chính Vương sớm đã tách khỏi đại đội cải trang đến đây.
Thúc Thận Huy đi chậm lại, như trước, xuống ruộng thị sát chuyện trồng trọt các huyện dọc đường.
Hôm nay, y đi ngang qua huyện Vĩnh hưng.
Trong tay Lưu Hướng nắm danh sách châu huyện dọc đường chuyến Nam tuần, nói huyện Vĩnh Hưng chưa tới vạn hộ, cách xa quan đạo, vùng đất xa xôi, cưỡi ngựa phải mất nửa ngày, hỏi phải chăng nên bỏ qua.
Thúc Thận Huy ngồi trên lưng ngựa, nhìn ra hướng huyện xa xa, tự dưng như nhớ đến việc gì, hỏi: “Phải chăng huyện lệnh là Cao Thanh Nguyên?”
Lưu Hướng nhìn lại, khẽ giật mình, ngẩng đầu đáp: “Đúng vậy. Sao điện hạ biết?”
Thúc Thận Huy không đáp, chỉ nói, “Đi xem một chút đi.”
Y đã mở miệng, đường có xa Lưu Hướng cũng phải theo. Từ buổi sáng xuất phát, đến chiều mới tới một thôn thông đến huyện thành. Để lại ngựa và tùy hành bên đường, Thúc Thận Huy và Lưu Hướng vào thôn, thấy ruộng lúa xanh xanh, nông dân đang bận cày ruộng. Có điều hôm qua vừa mưa một trận, đường ruộng rất lầy lội, hoàn toàn không có chỗ đặt chân.
Thúc Thận Huy dẫm đường đất đi tới, Lưu Hướng nối gót theo sau. Chưa đến một lát, bên dưới hai người lấm đầy nước bùn. Qua một mảnh ruộng, phía trước là bờ sông, Lưu Hướng thấy y dừng bước nhìn quanh, đứng một lát, bỗng đi đến bờ sông.
Ông tưởng Nhiếp Chính Vương muốn đi gột giày, cũng đi theo. Nào ngờ y chỉ dừng ở bờ sông, đưa mắt nhìn tới trước.
Lưu Hướng dõi theo ánh mắt y, nhìn sang.
Mặt sông rộng lớn, chỗ cửa sông rộng nhất phía trước cũng đến hai ba mươi trượng. Dọc theo hai bên bờ dài, có vết tích đào bùn cát nạo vét sông và xây dựng bờ đê, nhưng chẳng biết sao, bờ đê như bị xây nửa đã dừng, ven bờ tre bùn cát đá các thứ chất đống, bờ sông trống trải không thấy một người.
Lưu Hướng không rõ lắm chuyện thuỷ lợi nông sự nhưng cũng nhìn ra, địa thế vùng này đang trũng, giờ còn tạm, đến kỳ nước lên, nước từ thượng nguồn xuống e là tràn bờ, chảy ngược vào đồng ruộng.
Một lão nông tóc trắng gánh thùng nước đi tới, dừng bên bờ múc đầy thùng nước xách lên bờ. Không đề phòng bờ sông bùn nhão không chịu được nặng, chân trần trơn ướt đứng không vững, người bị thùng nước kéo muốn ngã vào lòng sông, bỗng sau lưng có một cánh tay kéo ông lão lại.
Lôi người về xong, Lưu Hướng lại với chụp hai thùng nước kéo lên bờ.
Lão nông đứng vững rồi, kịp định hồn, thấy hán tử mặt đen ra tay giúp đỡ, bên kia còn có một thanh niên chào hỏi mình: “Lão trượng bị sợ hãi rồi?”
Thanh niên đầu đội nón rộng vành màu xanh, y phục nửa mới nửa cũ xem ra giống người đọc sách trong huyện thành. Nông dân không khỏi câu nệ, líu ríu xoay người: “Già không sao. Đa tạ hai vị giúp đỡ!”
Thúc Thận Huy mỉm cười gật đầu, lại hỏi: “Xin hỏi lão trượng, mấy năm qua vùng này mùa màng như thế nào? Quan phủ thu thuế mấy thành? Đủ sống chứ?”
Hán tử mặt đen nhìn cũng giống một nhà nông, song người đọc sách này, mở miệng không phải người địa phương, là tiếng phổ thông, lại hỏi chuyện này. Lão nông không khỏi lộ vẻ do dự.
Thúc Thận Huy cười nói: “Hai bọn ta từ nơi khác tới, hôm nay tình cờ ngang qua. Nghe nói Hoài Dương giàu có nhất thiên hạ, đang định tìm một nghề xem có thể dừng chân sống qua ngày không.”
Lão nông thấy y cười hòa nhã, bỏ đi đề phòng: “Tiểu lang quân hỏi chuyện này à, mấy năm qua, quan phủ cũng không thu thêm thuế. Khó khăn thì khó khăn, tóm lại vẫn vượt qua được. Sợ là sợ ông trời không để người ta sống yên ổn. Năm ngoái trong huyện lũ lụt một lần, thu hoạch tốt lắm cũng chỉ bảy tám phần. Nộp quan lương xong cả nhà bóp bụng, mượn lương mới sống được. Chỉ mong năm nay ông trời mở mắt, đừng gây họa thủy nữa.” Nói xong, nhìn mặt sông bên cạnh, lo lắng.
Thúc Thận Huy chỉ vào bờ đê dở dang không xa ngoài kia: “Phía bên đó có chuyện gì vậy? Xem như là xây một nửa lại ngừng?”
Lão nông thuận theo ngón tay y liếc một cái, càng thêm cau mày thở dài nói: “Đừng nhắc nữa, vì nó mà Huyện tôn đắc tội cấp trên, rước họa vào thân, không biết ra sao rồi.”
Thúc Thận Huy nói: “Lão trượng có thể nói rõ hơn không?”
Lão nông dường như có phần sợ hãi, nhìn quanh quất, khoát tay, nói mình còn phải đi tưới ruộng, quảy gánh nước, vội vội vàng vàng đi.
Thúc Thận Huy nhìn bóng lưng vội vàng của lão nông rời đi, xoay qua Lưu Hướng, bảo ông tìm người nghe ngóng tường tận.
Dù ông nói khẩu âm vùng khác, nhưng với khuôn mặt đen và khung xương thô như nông dân, cũng chẳng phí sức, nhanh chóng đạt mục đích.
Địa thế huyện này nằm vùng trũng, đến tám chín tháng chịu bão Đông Nam, thường gây lụt lội, song vì xa xôi, lại không nhiều hộ, không hiện giữa đông đảo quận huyện của Giang Đô, là huyện cấp dưới, bên trên luôn ít coi trọng. Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên vùng này, ba năm trước đến nhậm chức, là người năng việc, thấy đường sông nhiều năm chưa từng nạo vét, đê đập lâu năm thiếu tu sửa, lũ lụt vừa đến là như không, vừa đến nhậm chức không lâu đã thỉnh xin châu phủ cấp tiền cho nạo vét đường sông, thêm đê đập.
Hàng năm địa phương đều có dự toán tương quan bộ Thủy phát xuống, nhưng quan Châu Tưởng Chính cứ cù cưa, chỉ nói chỗ khác còn quan trọng hơn, mãi không cho câu trả lời. Cao Thanh Nguyên đợi hơn hai năm, biết không thể cậy vào, muốn trước khi mình rời chức giúp vùng này giải quyết chuyện này, bèn tự phát động dân trong huyện gom góp thuế ruộng, thay phiên ra công. Dân huyện chịu khổ chuyện đường sông đã lâu, có Huyện tôn dẫn đầu dĩ nhiên nô nức hưởng ứng. Nạo vét đường sông xong, Cao Thanh Nguyên lại tìm đến công nhân trị thuỷ, thăm dò địa hình, thêm đê đắp đập. Ai ngờ nửa tháng trước, bỗng bên trên đưa xuống lệnh đình công, bảo xây dựng đập vây ở đây sẽ làm hư mất mạch khí huyện kế bên, huyện bên đã đưa cáo trạng. Mà thực tế là, Tưởng Chính nghe đâu đồn có kẻ chỉ trích hắn, cho rằng là Cao Thanh Nguyên tung ra. Lại qua mặt hắn phát động dân huyện tự đắp bờ, chẳng phải là đang vả mặt hắn sao? Oán hận trong lòng mới tìm cớ hạ lệnh đình công.
Nghe nói hôm đó, Cao Thanh Nguyên đang giám sát ở bờ đê đang xây một nửa này, nhận lệnh trên xuống, tức giận không thôi, ngay tại chỗ mắng to Tưởng Chính nuốt khoản tiền triều đình phát cho công trình thuỷ lợi, nói chờ Nhiếp Chính Vương Nam tuần đến, ông sẽ đi cáo trạng.
“Ban nãy lão trượng nói hắn rước họa vào thân, giờ hắn đang ở đâu?” Thúc Thận Huy nghe xong hỏi.
“Có thôn dân quan tâm, từng đi huyện nha xem, cửa chính đóng chặt, nói là mấy hôm trương Tưởng Chính khiển trách tội phạm thượng của hắn, bắt đóng cửa hối lỗi, không được phép tham dự đón giá.”
Thúc Thận Huy đứng trước bờ đê dở dang, trầm ngâm. Nông dân làm ruộng kế bên thỉnh thoảng quăng ánh nhìn hiếu kỳ sang thư sinh đội mũ rộng vành đứng bờ sông bên này.
Y đạp bùn, đi ra khỏi thôn.
Chạng vạng tối, hạ nhân đưa cơm canh tới, Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên không có lòng nào ăn uống, ngồi trong quan đường huyện nha mình, cau mày, tâm tình nặng nề bần thần.
Cha Cao Thanh Nguyên từng là Thủy Lại địa phương, từ nhỏ ông đã đi theo mỗi lần bổ nhiệm, tận mắt nhìn thấy lũ lụt tràn lan phá hỏng ruộng đồng, tai họa dân sinh thế nào. Sau khi ra làm quan, ông liền lập chí muốn làm chút việc thực tế cho dân. Lần này gặp cản trở chèn ép vầy, mấy hôm trước, còn nhận được lời trực tiếp của cấp trên, ý là lần này Nhiếp Chính Vương Nam tuần tới đây, là vì đại kế Bắc phạt, địa phương nên trên dưới đồng lòng, chung tay hợp lực. Nếu ông dám đem chuyện nhỏ nhặt này phá hư cục diện, phá hỏng hào hứng Nhiếp Chính Vương thì hãy coi chừng.
Là uy hiếp trắng trợn.
Không chỉ thế, cũng vì hôm đó ông ăn nói phạm thượng đã bị tạm thời cách chức, mất đi tư cách đến đón giá.
Cao Thanh Nguyên ban đầu chỉ là một tiểu lại. Năm hai mươi tuổi, cha ông hy sinh vì nhiệm vụ, ông kế tục chức của cha, nhiều năm qua, được điều nhiệm đi về các nơi, chủ quản công trình thuỷ lợi, cứ thế hai mươi năm. Ba năm trước, triều đình hạ chỉ, quan lại địa phương có thể dùng đánh giá thành tích đặc biệt mà thăng chức, ông được một viên thượng quan thưởng thức mình đề cử, mới cuối cùng chuyển từ lại thành quan, đến đây làm Huyện lệnh.
Hôm đó cạnh bờ đê, ông xúc động phẫn nộ, đúng là đã nói muốn tìm Nhiếp Chính Vương cáo trạng. Nhưng trước đó ông cũng không có cơ hội tiếp cận lên trên, cũng không biết đương kim Nhiếp Chính Vương đến cùng là người thế nào, lần này Nam tuần là thật vì dân tình hay là thích việc lớn hám công to, vì tuyên dương ơn đức triều đình.
Huống chi hiện giờ, xem như ông muốn xách đầu xông vào cáo trạng cũng không còn cơ hội. Ngoài huyện nha có kẻ theo dõi sát sao, ông đã bị giam lỏng. Nhiếp Chính Vương chỉ cần ngày nào chưa đi, sợ là ông sẽ bị giam thêm ở đây ngày đó.
Nhưng nếu thật sự khuất phục như thế này, một nửa con đê đang dựng ném một bên thành công dã tràng, sau này bảo ông lấy mặt mũi nào đi đối mặt hương lão toàn huyện?
Tâm tình Cao Thanh Nguyên buồn khổ vô cùng, đi qua đi lại trong quan đường, đang sốt ruột không tính gì được, chợt nghe ngoài đường có tiếng ầm ĩ như ai đang đánh nhau.
Ông vọt ra mấy bước, thấy cửa huyện nha mở toang, một hán tử xông vào, không thèm quay đầu nhìn, nhấc chân đá người đuổi theo ngăn cản, một cước đá một tên, đám kia luôn mồm kêu thảm, bay ra ngoài ngã ngổn ngang ra đất, rên rỉ không ngừng, thấy cánh tay đã gãy xương, bị thương không nhẹ.
Hán tử thoát khỏi người, nhanh chân tiếp tục bước sang bên này.
Cao Thanh Nguyên nhìn thấy hãi hùng khiếp vía, mới đầu tưởng Tưởng Chính phái người đến muốn giết mình công khai, kinh hãi khi gan hắn to bằng trời, lại nhìn lại, mấy tay bự con bị đạp bay kia hình như mới là nanh vuốt của Tưởng Chính phái tới canh chừng ông, trong phút chốc hồ đồ luôn. Thấy người kia đến gần, là một đại hán mặt đen, dừng bước hỏi: “Ông là Cao Thanh Nguyên, Huyện lệnh vùng này?”
Cao Thanh Nguyên phản ứng lại. “Ngươi là ai?”
Người kia ghé đến gần tai ông thấp giọng nói một câu, Cao Thanh Nguyên sợ ngây người, kịp tỉnh táo lại, mới đầu còn bán tín bán nghi, nhìn ra cổng chính Huyện nha, chần chừ một lúc, hỏi: “Xin hỏi… còn túc hạ là ai?”
Lưu Hướng móc lệnh bài tùy thân chìa ra. Lệnh bài bằng đồng thau, chính giữa phía trên khắc đầu yêu quái giận dữ trợn mắt, nhe răng bốn phía, ở giữa mặt trước khắc nổi chữ “Cấm Quân ti”, mặt sau là chữ chìm nhỏ “Đại Ngụy phụng chỉ chế tạo, xuất kinh dùng”. Nhìn thấy vật này, biết không thể giả tạo, không còn nghi ngờ, lòng thầm sợ hãi mà mừng rơn, khom người tạ ơn người trước mặt rồi cất bước, chạy như điên ra ngoài. Ông chạy quá nhanh, đến ngưỡng cửa bị vấp té nhào ra đất, lại chẳng mảy may thấy đau, lại đứng dậy chạy tiếp ra khỏi cổng chính đại môn, nhìn thấy một người thanh niên thân mặc thường phục đứng ở bên ngoài, đang chắp tay sau lưng mà đứng, thân hình như tùng, ánh mắt trầm tĩnh. Thấy ông chạy ra, nhìn sang.
Cao Thanh Nguyên đương nhiên biết Nhiếp Chính Vương đương triều chưa quá hai bốn hai lăm, đang lúc tráng kiện, giờ thấy người trước mặt, lại thấy một đội tùy tùng đứng nghiêm cách anh ta không xa ngoài kia, thầm biết vị này nhất định là người đứng đầu đội Nam tuần, tâm tình kích động vô cùng, quỳ xuống, hô: “Nhiếp Chính Vương ở trên, vi thần Huyện lệnh Vĩnh Hưng Cao Thanh Nguyên tiếp giá tới chậm, Nhiếp Chính Vương thứ tội!” Nói xong dập đầu.
Thúc Thận Huy lệnh ông đứng dậy. Cao Thanh Nguyên biết mình không thể quá thất thố, cố hết sức đè tâm tình kích động xuống, chậm rãi đứng dậy.
Thúc Thận Huy ngưng mắt nhìn ông, bỗng mỉm cười: “Bổn vương nhớ tên ông. Ba năm trước, triều đình từng đặc biệt thăng chức một nhóm quan lại có tài, công văn bộ Lại lúc đó chính tay bổn vương phê ký, trong đó có ông, nghe nói trước kia lệnh tôn vì trị thủy mà mất, ông kế thừa nghiệp cha làm công trình thuỷ lợi. Lúc ấy bổn vương nhìn qua, đến nay vẫn còn ấn tượng.”
Y gật đầu: “Ông quả nhiên chưa từng phụ tín nhiệm của triều đình. Bổn vương rất hài lòng.”
Cao Thanh Nguyên lại ngẩn ra. Ông tuyệt đới không ngờ, một thứ nhỏ nhoi ba năm trước, tên mình kẹp giữa ba trăm tên người được ghi chép, Nhiếp Chính Vương một ngày trăm công ngàn việc, vậy mà đến nay không quên.
Trong giây phút này ông không chỉ kích động, mà là kích động phát run, mắt rưng rưng lệ nóng, vừa đứng dậy lại quỳ thụp xuống dập đầu liên tục, nức nở nói: “Nhiếp Chính Vương quá khen! Vi thần đã phụ tín nhiệm của Nhiếp Chính Vương. Tới đây ba năm, lo liệu một con sông gây họa mà đến giờ vẫn chưa xong. Còn phải nhọc lòng điện hạ trên đường nam tuần đầy bận rộn hỏi đến. Là tội của vi thần!”
Ông đến đây làm quan ba năm, thanh liêm thủ chính, yêu dân như con, thời gian này vì đắc tội với thượng quan vì chuyện xây đê, dân huyện đều ấm ức lo lắng cho ông, ấy hôm nay luôn có người trông chừng ở cổng huyện nha. Vừa rồi Lưu Hướng phá cửa mà vào, lại thêm động tĩnh thế này, chung quanh rất nhiều người bu lại, nghe vậy, mới biết đúng là Nhiếp Chính Vương đích thân tới, tất cả đều theo Cao Thanh Nguyên quỳ xuống. Có người chỉ lo dập đầu, có người mong biện bạch cho Huyện tôn, có người gan lớn lên án châu quan. Trong phút chốc, ngoài Huyện nha rối loạn một vùng.
Thúc Thận Huy ra hiệu Cao Thanh Nguyên dẫn dân chúng đứng dậy, nói: “Thiên tử yêu dân. Chuyến này bổn Vương nam tuần là thay Thiên tử nhìn dân, làm tai mắt cho Thiên tử. Có sâu có xa cũng là dân của thiên tử, sao lại đối đãi phân biệt? Các ngươi lập tức làm trở lại, cần phải đuổi trước kỳ nước lên năm nay mà sửa xong đê đập. Khoản tiền cần thiết cho thủy công, trong vòng ba ngày chắc chắn sẽ phát xuống!”
Chung quanh tiếng vui mừng không ngớt. Cao Thanh Nguyên dẫn dân huyện khấu tạ ơn Nhiếp Chính Vương, không màng trời đã chạng vạng, lập tức chạy đến con đê, chuẩn bị làm tiếp.
Ngày thứ ba, Thích sứ và Thái thú dẫn theo mấy trăm quan viên lớn nhỏ bản địa cùng thân sĩ có tiếng, cuối cùng chờ đội Nam tuần ở bến tàu, lại không thấy Nhiếp Chính Vương. Hai bên giật mình, tìm khắp nơi mới biết y đã tới từ trước, giờ đang ở bờ sông huyện Vĩnh Hưng, nghe nói dừng lại đã mấy ngày, tự mình giám sát.
Đám người quá sợ hãi chạy tới, đến nơi, thấy phu dân qua lại ven bờ, khí thế thi công ngất trời, Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên đang cùng với Nhiếp Chính Vương tuần sông.
Quan viên ai nấy sợ hãi, ai mà ngờ Nhiếp Chính Vương chẳng những đến sớm, lại còn đến huyện nhỏ xa xôi này? Rối rít lên bái kiến. Nhiếp Chính Vương sai người tháo mũ quan và bào phục của Tưởng Chính ngay tại chỗ, thăng chức Cao Thanh Nguyên làm Đông Nam Hà Đạo Đặc sứ, tổng quản việc đường thủy các châu huyện Đông Nam, lại hạ lệnh nghiêm tra tham nhũng, điều tra quan viên giữ lại khoản tiền thủy công, có một trị một, tội thêm một bậc, tuyệt đối không nhân nhượng.
Y dừng ở Giang Đô tổng cộng nửa tháng. Bận rộn, ngoại trừ thăng chức Cao Thanh Nguyên và hơn mười quan viên khác có làm chuyện thực tế bên ngoài, giết Tưởng Chính và ba tên quan viên cấu kết dẫn đến lòng phẫn nộ to lớn của dân chúng răn đe. Thiên ân và sấm sét trỗi dậy xong, trong tiếng tán tụng của dân chúng Giang Đô rời đi, tiếp tục xuôi nam, cứ thế một đường tuần sát, trừng trị tham quan, đề bạt quan lại mẫn cán, chừng sau hai tháng, đến cuối tháng bảy, về đến Tiền Đường.
Quan viên bản địa đã nghe phong phanh chuyện y Nam tuần, đều biết y thiết thực khắc nghiệt, câu nói “thay thế thiên tử nhìn dân, làm tai mắt cho Thiên tử” ai ai đều biết. Tuy nói một đường y thăng chức không ít người, nhưng chặt đầu xuống, cũng là thật, ai biết kế tiếp có thể tới phiên mình không. Tiếp đón người xong, nơm nớp lo sợ, nơi nơi giữ gìn, mấy việc phô trương đã chuẩn bị xong từ mấy tháng trước đều hủy hết. Đại Ngụy hàng năm đều cấp bào phục mới cho quan viên, song hôm đi đón tiếp y, người người mặc đồ cũ, không biết còn tưởng rằng triều đình Đại Ngụy giờ phá sản, đến cả y phục quan viên cũng không phát nổi.
Nhưng chẳng ai ngờ tới, sau ba ngày Nhiếp Chính Vương tuần sát xong, hôm ấy, bỗng xếp trăm bàn yến ở hành cung ven hồ, mời các cụ từ bảy mươi toàn thành đến dự tiệc, yến hội thết đãi ba ngày. Lại buông lời, triều đình Bắc phạt, y mời trưởng giả dự tiệc chính là hy vọng có thể có kế sách hay. Đồng thời, không chỉ trưởng giả dự tiệc, mọi người dù thân phận nào, sĩ nông công thương, hòa thượng đạo sĩ, đều có thể lên nói.
Mấy chục vạn người toàn thành, thoạt đầu chẳng ai tin, mãi đến ngày thứ hai, một thợ rèn lỗ mãng xông ra, xưng mình chế tạo được một bộ kính hộ tâm trước sau có thể giúp quân sĩ tác chiến, đao thương bất nhập. Nhiếp Chính Vương bảo hắn đem ra xem. Chặt chẽ đúng là chặt chẽ, nhưng người mặc lên như đeo hai cái nồi sắt lớn trước sau, đi nhanh chút là cạch cạch rung động, đương nhiên không xài được. Cả sảnh đường cười to, thế mà Nhiếp Chính Vương không có trách mà trái lại còn khen thưởng thợ rèn, tặng hắn mực bảo, thân bút đề một tấm biển phong “Thiên hạ đệ nhất” cho hắn —— thợ rèn này là người đầu tiên dám can đảm hưởng ứng thượng sách, còn không phải thiên hạ đệ nhất ư?
Lần này không được, song Nhiếp Chính Vương cũng gần gũi dân vậy.
Người toàn thành chen chúc tới, đủ thể loại đề nghị đều có. Dĩ nhiên phần lớn là không thể dùng, không ít ý nghĩ hão huyền tầm phào, như nồi sắt lớn của Thiên hạ đệ nhất thợ rèn kia, Nhiếp Chính Vương đương nhiên không thể gặp mặt từng người. Nhưng đúng là, có mấy áo trắng đọc luận sách ngang dọc cũng có mấy phần trình độ. Gặp được họ, Nhiếp Chính Vương tự mình triệu kiến nói chuyện, không tiếc ngợi khen, thậm chí đặc biệt ban cho công danh đối với người nổi bật trong số đó.
Mấy người này sống ở một vùng sĩ tộc vùng Đông Nam, xem như giờ đây gia tộc đã lụn bại nhưng nội lực đến cùng vẫn còn mấy phần, đồng môn trải rộng thiên hạ. Được đãi ngộ thế, đều cảm thấy vô cùng vinh dự. Mới mấy ngày ngắn ngủi, văn chương ca công tụng đức vì trận xuất quan chiến của triều đình, biến thành không khí, biến thành hướng của lòng dân.
cuối, dưới hành cung bên hồ chen chen chúc chúc toàn là người, trên hồ cũng thuyền lớn nhỉ chật ních, mạn thuyền sát bên mạn thuyền như đất bằng, trẻ nít có thể chạy chơi qua lại trên hồ.
Đêm đó, nếu như không gian dưới hành cung có hạn, quả thật là người người toàn đã đến. Đang lúc quần tình kích động, bỗng thấy một người trên thuyền cao giọng hô to: “Điện hạ! Thảo dân thay mặt dân chờ lệnh, dân chúng Đông Nam ta để biểu lộ lòng trung, cam tâm tình nạp thuế ruộng vì đại kế Bắc phạt của triều đình! Mong triều đình nhận giúp!”
Lời vừa ra, một đường được truyền đi, rất nhanh sau đó, các toán người mới còn kích động trong chớp mắt toàn bộ im lặng. Cả đám quay đầu nhìn lại, thấy người lên tiếng đúng là một phú thương trong vùng. Gã cao cao đứng trên đầu thuyền nhà mình, nói dứt lời, hướng về phía hành cung dập đầu bình bịch.
Nhiếp Chính Vương đang ngồi trên một đài quan sát ở hành cung lưng chừng núi, chung quanh là quan viên trong vùng ngồi hầu cùng. Ở đó, y có thể nhìn thấy đám người dưới núi mà đám người nhìn lên, cũng có thể thấp thoáng thấy bóng hình đội mũ vàng lưng rộng.
Phú thương kia nhanh chóng được truyền đến trước mặt Nhiếp Chính Vương. Lúc này, toàn bộ ven hồ đã là hoàn toàn yên tĩnh, vạn người lặng ngắt như tờ.
Thoạt đầu y còn ngồi, lát sau, dưới ánh nhìn vạn chúng chậm rãi đứng lên, bước tới mấy bước, dừng lại, nhìn đám người cao giọng: “Đêm nay ngày tốt, Hoàng đế bệ hạ dẫu ngồi trong cung cấm, chưa thể chính tai nghe được lời nói chân thành như thế, song bệ hạ nhất định có thể cảm giác được lòng trung thành của chư vị hương lão đối với triều đình. Bản vương cũng rất cảm động.”
Y ngừng đoạn, nhìn quanh một lần, nói tiếp: “Trước khi xuất kinh lần này, Hoàng đế bệ hạ có rất nhiều căn dặn bổn Vương, trong đó có một câu, vĩnh viễn không tăng thuế!”
“Bệ hạ liên tục căn dặn, bảo bổn Vương phải thay người truyền đạt câu ấy cho bàn dân thiên hạ, để người người được biết. Thái bình thế này, cho dù có gặp quốc chiến, sẽ như trước mắt, triều đình có khó khăn cũng sẽ không kêu gọi thiên hạ bá tánh, thần dân Đông Nam các người, chịu thêm nửa phần thuế má!”
Giọng y từ cao đến thấp, từ gần đến xa, từ lưng chừng núi truyền đến chân núi, lại theo gió bay khắp mặt hồ và bốn phía, thuần hậu mà trong sáng, uy nghiêm mà bình thản.
Người người ngẩng đầu, nín thở nhìn bóng người lưng chừng núi.
“Xưa thánh hiền có câu, đạo giả đi xa, cần mượn nhờ xe ngựa. Người vượt sông biển, cần mượn nhờ thuyền bè. Hôm nay đình cũng giống vậy. Chuyện triều đình muốn làm, cần có bàn dân thiên hạ chở che. Thần dân các người, ai nấy lo chức vụ của mình. Người làm ruộng thêm cày, người nuôi tằm ra tơ, người làm buôn bán đổi hàng, đem thuế phú các người nên giao nộp sớm kịp giao nộp, quy về quốc khố, ấy là lòng trung thành lớn nhất đối với triều đình, cũng là ủng hộ lớn nhất đối với đại kế Bắc phạt!”
Lời y vừa buông, yên tĩnh ngắn ngủi qua đi, bỗng dưới núi và trên mặt hồ, tiếng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế vang lên từng đợt, rồi, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế, âm thanh chấn động giữa núi sông, rung chuyển lòng người.
Phục tùng trong vui vẻ này, không cần nói cũng biết.
Nhiếp Chính Vương nói xong, mỉm cười ngồi về chỗ.
Đợi âm thanh reo hò dưới núi ngừng, Thái Thú đến bên cạnh Nhiếp Chính Vương, góp lời, lòng dân hướng về, sĩ nông công thương Đông Nam các nơi, người người đều muốn góp một phần lực vì triều đình. Đã vĩnh viễn không tăng thuế, sao không tiếp nhận quyên tặng, miễn lạnh lẽo tấm lòng mọi người. Muốn biểu lộ ngợi khen có thể đưa người quyên tặng vào sách tuyên vinh, tặng thưởng những người tích cực ra sức, thí dụ như, trao vinh hàm.
Thái Thú nói xong, người chung quanh đều xưng phải. Nhiếp Chính Vương cũng gật đầu. Thái Thú lập tức sai người truyền lời xuống.
Vừa nãy phú thương máu nóng xông lên đầu xổ ra câu kia, trong lòng vô số người dưới núi đều có chút chột dạ, sợ Nhiếp Chính Vương thuận thế nói được, thầm mắng phú thương là cái vòi phun máu chó. Rất nhiều địa chủ và gia tộc quyền thế đều đã hạ quyết tâm, nếu triều đình thật sự tăng thuế, vậy nhất định phải tìm cách đánh thuế thêm lên đầu tá điền —— cách này cực chẳng đã bọn hắn mới phải làm. Đến giờ chuyển hướng, nói có thể quyên tặng, tương ứng sẽ được triều đình khen ngợi, trao tặng vinh hàm, vậy hoàn toàn khác.
Tin vừa truyền ra, không ít người xôn xao, phú thương kia là người đầu tiên nhảy dựng, bảo mình muốn quyên tặng mười vạn, thỉnh cầu duy nhất chỉ là hy vọng Nhiếp Chính Vương cũng ban thưởng hắn vài chữ, giúp đề tấm biển trước gia viên nhà hắn mới khánh thành.
Nhiếp Chính Vương cho người dẫn phú thương tới, chẳng những chính miệng ngợi khen, đồng ý đề biển, còn gọi người ghi danh hắn vào sách, nhận vinh hàm, như thế, nếu lần sau Hoàng đế bệ hạ hay y có Nam tuần lần nữa, phú thương này sẽ có tư cách cùng quan viên dự gặp mặt.
Phú thương cảm động đến rơi nước mắt, dập đầu một hơi mười cái rồi đi xuống, trong ánh mắt hâm mộ của đám đông, dương dương đắc ý rời đi.
Sau đó, Nhiếp Chính Vương tự mình mời một ly với các lão, kết thúc chuyện của y đêm nay, trong tràng cung tiễn sau lưng, y quay người vào hành cung.
Lưu Hướng đi sát sau Nhiếp Chính Vương.
Nói thật, mọi chuyện xảy ra trong đêm nay dường như cũng trong dự liệu, phù hợp với kỳ vọng —— sở dĩ nói dường như, là vì ở giữa đúng là cũng có bất ngờ. Đó chính là Lưu Hướng ban đầu vốn âm thầm sắp xếp một người cấp cao, đứng ra đề nghị góp thêm tiền của, sau đó Nhiếp Chính Vương sẽ bác bỏ, người còn chưa mở miệng, trong số người địa phương đã có phú thương tự lên tiếng trước.
Từ mai, e là văn nhân Đông Nam phải bận rộn một phen rồi.
Trong lòng ông không khỏi càng thấy bội phục Nhiếp Chính Vương.
Ông đưa Nhiếp Chính Vương vào, nhìn cửa cung đóng lại rồi mới quay đi, cho nhân viên giải tán.
Cửa cung nặng nề, khi đóng thật chặt sau lưng, mọi âm thanh ồn ào cũng đều bị ngăn ở bên ngoài.
Ý cười trên mặt Thúc Thận Huy cũng biến mất theo, đi thẳng về tẩm điện mình ở trong lần này.
Y không ở Giám Xuân các từng ở hai tháng trước, mà là một gian điện phía Tây.
Còn chưa tới lúc nghỉ ngơi. Y ngồi vào bàn, theo thói quen lật tấu chương được khoái mã đưa từ Trường An đến, lúc giơ tay phải lên, y liền nghĩ tới một người.
Y dừng tay, chậm rãi xoay chuyển nhìn vết thương trong lòng bàn tay mình.
Nàng đã rời đi hai tháng, chắc đã về Nhạn Môn từ lâu.
Giờ này đêm nay, y đã về lại đây, còn nàng, đang ở đâu? Đại doanh Nhạn Môn, hay Thanh Mộc doanh? Nàng đang làm gì? Phóng ngựa rong ruổi, tướng sĩ theo cạnh nàng, hay là đã nghỉ ngơi, nằm trong doanh trướng mình?
Chắc sau khi quay về nàng chẳng nhớ y đâu nhỉ. Còn y thế mà lại nghĩ đến nàng.
Vết thương quái quỷ lau không đi trong lòng bàn tay này luôn gợi đòn. Nhìn thấy nó, bảo sao y có thể không nhớ nàng?
Tâm tình Thúc Thận Huy lại trở nên buồn bực.
Y đặt tay xuống trong tấu chương, chậm rãi siết chặt lòng bàn tay, rồi buông, lại siết chặt, rồi buông, làm như có thể lấy đó để mau ủi vết thương đi…
Bỗng nhiên, y dừng tay lại.
Y nhớ tới một vật.
Y chần chừ một lúc. Vốn không định đi, nhưng cuối cùng vẫn không kìm chế được, ra Tây điện, đi đến Giám Xuân các nơi hai tháng trước ở cùng cô, đẩy cửa vào.
Cung nhân thắp nến, rời khỏi. Y nhìn quanh một vòng, lập tức mở hết ngăn kéo, tìm kiếm mọi chỗ có thể cất đồ, không thấy.
Y gọi cung nhân phụ trách quét dọn nơi đây hỏi: “Hai tháng trước, lúc Vương phi đi, thu dọn chỗ này, ngươi có thấy một chiếc hộp?” Y miêu tả kích thước kiểu dáng hộp.
Cung nhân lắc đầu: “Chưa từng thấy.”
Thúc Thận Huy sai người ra ngoài, chậm rãi đi tới trước cửa sổ phía Nam, mở cửa nhìn ra ngoài.
Nàng mang đi sao?
Không không, không có khả năng!
Nàng một người tuyệt tình thế, y đã nói đến vậy, tất nhiên nàng đã vứt đi.
Vô cùng có khả năng, lúc rời đi nàng tiện tay vứt luôn vào miệng hồ dưới chân núi.
Y cố hết sức kìm nén xúc động tột cùng muốn lập tức sai người xuống nước tìm mới nảy trong lòng, nhìn ra hướng kia.
Chân núi cùng trên hồ tụ lên đám người, đã ở Lưu Hướng cùng ban một người chỉ huy dưới, có thứ tự chậm rãi tán đi. Nơi xa đèn đuốc điểm điểm, trộn lẫn lấy tiếng cười tiếng ồn ào theo gió, mơ hồ đưa vào hành cung.
Thúc Thận Huy đứng đó một lúc lâu, chậm rãi quay lại nhìn bốn phía.
Tấ cả đều như trước. Giường khắc răng voi, màn trướng rũ, giường mỹ nhân trước cửa sổ, chiếc bàn con trên giường…
Cuối cùng y cởi áo, nằm lên chiếc giường đã từng cùng nàng ấy ngủ qua.
Ngủ đi.
Y mệt, rất mệt.
Y nhắm mắt, tĩnh tâm, sau chốc lát, trong hơi thở y phảng phất ngửi thấy một sợi hơi thở còn vương lại trong trướng của cô.
Lúc này có người nhẹ gõ cửa. Y không muốn. Không muốn cảm giác y vừa bắt lại được bị xua đi. Nhưng người kia tiếp tục gõ cửa, như rằng nếu y không mở sẽ không bỏ qua.
Y choàng mở mắt, giận dữ, xoay người xuống giường nhanh bước ra mở phắt cửa.
Lưu Hướng đứng ở bên ngoài.
“Chuyện gì?” Thấy là Lưu Hướng, y đè cơn giận, nhưng ngữ khí có chút không vui.
Lưu Hướng vội hành lễ: “Vi thần quấy nhiễu điện hạ nghỉ ngơi. Là mới nhận được công văn khẩn cấp của Khương Đại tướng quân từ Nhạn Môn gửi thẳng đến. Vi thần nghĩ chắc rất quan trọng, không dám trễ nãi bèn tự mình đưa tới. Mời điện hạ đích thân xem.”
Một bức thư tín niêm kín bằng xi, được hai tay nâng cung kính hiện ra trước mặt Thúc Thận Huy.
Nhưng, cuối cùng Thúc Thận Huy vẫn bỏ mấy ngày “nhàn” “trộm” chưa dùng xong, trong đêm mưa to như trút nước kia, chưa đợi nhỏ đi, đã lên đường đi Giang Đô.
Bàn tay cản kiếm kia, sau đó được Lưu Hướng băng bó lại lần nữa. Dù đã cầm máu song vết thương vẫn co rút đau từng đợt. Thật giống như trái tim y.
Sau khi lên đường, cả người y vẫn đắm chìm trong cảm xúc chuyện đêm qua mang lại, hoàn toàn không cách nào tự kềm chế.
Mỗi lần nàng tìm hòa thượng đến cùng là nói chuyện gì? Ở chỗ hắn ta, mới có thể thấy yên tâm, ngủ được?
Nàng thế mà vì người khác, quỳ trước y, thậm chí còn quyết tuyệt cắt tóc!
Nhưng, dù là vậy, cuối cùng nàng đứng lên, giả vờ hỏi một tiếng tay y có đau không, có lẽ y cũng sẽ còn giữ lại một tia tình cảm cuối cùng dành cho nàng ấy.
Còn giờ đây, mất hết cả rồi!
Cứ vậy đi, nàng có thể quay về Nhạn Môn.
Câu kia, cuối cùng y không chỉ là nói cho cô, mà cũng là nói cho chính mình.
Cả người y bị tâm tình ấy giày vò, khi thì phẫn uất, khi thì uể oải, khi thì hối hận, khi thì khinh thường, cuối cùng, y thấy lòng mình đã hoàn toàn nguội lạnh. Cứ thế, mấy hôm sau, mãi đến khi vào đến Giang Đô, cuối cùng mới có thể dời lực chú ý, bắt đầu bận rộn chuyện của mình.
Hoài Dương được trời ưu đãi về địa lý và sản vật, là vùng đất thiên hạ phồn thịnh xưa nay. Hôm nay càng may mắn hơn, trở thành trạm chính Nhiếp Chính Vương đương triều khi nam tuần. Theo tin báo trước đó, mấy hôm nữa đoàn người của ngài sẽ đến. Từ sớm, mấy ngày qua, Quận trưởng thích sứ và các quan huyện bản địa đã bận rộn chuẩn bị tiếp giá. Bọn họ nào biết, Nhiếp Chính Vương sớm đã tách khỏi đại đội cải trang đến đây.
Thúc Thận Huy đi chậm lại, như trước, xuống ruộng thị sát chuyện trồng trọt các huyện dọc đường.
Hôm nay, y đi ngang qua huyện Vĩnh hưng.
Trong tay Lưu Hướng nắm danh sách châu huyện dọc đường chuyến Nam tuần, nói huyện Vĩnh Hưng chưa tới vạn hộ, cách xa quan đạo, vùng đất xa xôi, cưỡi ngựa phải mất nửa ngày, hỏi phải chăng nên bỏ qua.
Thúc Thận Huy ngồi trên lưng ngựa, nhìn ra hướng huyện xa xa, tự dưng như nhớ đến việc gì, hỏi: “Phải chăng huyện lệnh là Cao Thanh Nguyên?”
Lưu Hướng nhìn lại, khẽ giật mình, ngẩng đầu đáp: “Đúng vậy. Sao điện hạ biết?”
Thúc Thận Huy không đáp, chỉ nói, “Đi xem một chút đi.”
Y đã mở miệng, đường có xa Lưu Hướng cũng phải theo. Từ buổi sáng xuất phát, đến chiều mới tới một thôn thông đến huyện thành. Để lại ngựa và tùy hành bên đường, Thúc Thận Huy và Lưu Hướng vào thôn, thấy ruộng lúa xanh xanh, nông dân đang bận cày ruộng. Có điều hôm qua vừa mưa một trận, đường ruộng rất lầy lội, hoàn toàn không có chỗ đặt chân.
Thúc Thận Huy dẫm đường đất đi tới, Lưu Hướng nối gót theo sau. Chưa đến một lát, bên dưới hai người lấm đầy nước bùn. Qua một mảnh ruộng, phía trước là bờ sông, Lưu Hướng thấy y dừng bước nhìn quanh, đứng một lát, bỗng đi đến bờ sông.
Ông tưởng Nhiếp Chính Vương muốn đi gột giày, cũng đi theo. Nào ngờ y chỉ dừng ở bờ sông, đưa mắt nhìn tới trước.
Lưu Hướng dõi theo ánh mắt y, nhìn sang.
Mặt sông rộng lớn, chỗ cửa sông rộng nhất phía trước cũng đến hai ba mươi trượng. Dọc theo hai bên bờ dài, có vết tích đào bùn cát nạo vét sông và xây dựng bờ đê, nhưng chẳng biết sao, bờ đê như bị xây nửa đã dừng, ven bờ tre bùn cát đá các thứ chất đống, bờ sông trống trải không thấy một người.
Lưu Hướng không rõ lắm chuyện thuỷ lợi nông sự nhưng cũng nhìn ra, địa thế vùng này đang trũng, giờ còn tạm, đến kỳ nước lên, nước từ thượng nguồn xuống e là tràn bờ, chảy ngược vào đồng ruộng.
Một lão nông tóc trắng gánh thùng nước đi tới, dừng bên bờ múc đầy thùng nước xách lên bờ. Không đề phòng bờ sông bùn nhão không chịu được nặng, chân trần trơn ướt đứng không vững, người bị thùng nước kéo muốn ngã vào lòng sông, bỗng sau lưng có một cánh tay kéo ông lão lại.
Lôi người về xong, Lưu Hướng lại với chụp hai thùng nước kéo lên bờ.
Lão nông đứng vững rồi, kịp định hồn, thấy hán tử mặt đen ra tay giúp đỡ, bên kia còn có một thanh niên chào hỏi mình: “Lão trượng bị sợ hãi rồi?”
Thanh niên đầu đội nón rộng vành màu xanh, y phục nửa mới nửa cũ xem ra giống người đọc sách trong huyện thành. Nông dân không khỏi câu nệ, líu ríu xoay người: “Già không sao. Đa tạ hai vị giúp đỡ!”
Thúc Thận Huy mỉm cười gật đầu, lại hỏi: “Xin hỏi lão trượng, mấy năm qua vùng này mùa màng như thế nào? Quan phủ thu thuế mấy thành? Đủ sống chứ?”
Hán tử mặt đen nhìn cũng giống một nhà nông, song người đọc sách này, mở miệng không phải người địa phương, là tiếng phổ thông, lại hỏi chuyện này. Lão nông không khỏi lộ vẻ do dự.
Thúc Thận Huy cười nói: “Hai bọn ta từ nơi khác tới, hôm nay tình cờ ngang qua. Nghe nói Hoài Dương giàu có nhất thiên hạ, đang định tìm một nghề xem có thể dừng chân sống qua ngày không.”
Lão nông thấy y cười hòa nhã, bỏ đi đề phòng: “Tiểu lang quân hỏi chuyện này à, mấy năm qua, quan phủ cũng không thu thêm thuế. Khó khăn thì khó khăn, tóm lại vẫn vượt qua được. Sợ là sợ ông trời không để người ta sống yên ổn. Năm ngoái trong huyện lũ lụt một lần, thu hoạch tốt lắm cũng chỉ bảy tám phần. Nộp quan lương xong cả nhà bóp bụng, mượn lương mới sống được. Chỉ mong năm nay ông trời mở mắt, đừng gây họa thủy nữa.” Nói xong, nhìn mặt sông bên cạnh, lo lắng.
Thúc Thận Huy chỉ vào bờ đê dở dang không xa ngoài kia: “Phía bên đó có chuyện gì vậy? Xem như là xây một nửa lại ngừng?”
Lão nông thuận theo ngón tay y liếc một cái, càng thêm cau mày thở dài nói: “Đừng nhắc nữa, vì nó mà Huyện tôn đắc tội cấp trên, rước họa vào thân, không biết ra sao rồi.”
Thúc Thận Huy nói: “Lão trượng có thể nói rõ hơn không?”
Lão nông dường như có phần sợ hãi, nhìn quanh quất, khoát tay, nói mình còn phải đi tưới ruộng, quảy gánh nước, vội vội vàng vàng đi.
Thúc Thận Huy nhìn bóng lưng vội vàng của lão nông rời đi, xoay qua Lưu Hướng, bảo ông tìm người nghe ngóng tường tận.
Dù ông nói khẩu âm vùng khác, nhưng với khuôn mặt đen và khung xương thô như nông dân, cũng chẳng phí sức, nhanh chóng đạt mục đích.
Địa thế huyện này nằm vùng trũng, đến tám chín tháng chịu bão Đông Nam, thường gây lụt lội, song vì xa xôi, lại không nhiều hộ, không hiện giữa đông đảo quận huyện của Giang Đô, là huyện cấp dưới, bên trên luôn ít coi trọng. Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên vùng này, ba năm trước đến nhậm chức, là người năng việc, thấy đường sông nhiều năm chưa từng nạo vét, đê đập lâu năm thiếu tu sửa, lũ lụt vừa đến là như không, vừa đến nhậm chức không lâu đã thỉnh xin châu phủ cấp tiền cho nạo vét đường sông, thêm đê đập.
Hàng năm địa phương đều có dự toán tương quan bộ Thủy phát xuống, nhưng quan Châu Tưởng Chính cứ cù cưa, chỉ nói chỗ khác còn quan trọng hơn, mãi không cho câu trả lời. Cao Thanh Nguyên đợi hơn hai năm, biết không thể cậy vào, muốn trước khi mình rời chức giúp vùng này giải quyết chuyện này, bèn tự phát động dân trong huyện gom góp thuế ruộng, thay phiên ra công. Dân huyện chịu khổ chuyện đường sông đã lâu, có Huyện tôn dẫn đầu dĩ nhiên nô nức hưởng ứng. Nạo vét đường sông xong, Cao Thanh Nguyên lại tìm đến công nhân trị thuỷ, thăm dò địa hình, thêm đê đắp đập. Ai ngờ nửa tháng trước, bỗng bên trên đưa xuống lệnh đình công, bảo xây dựng đập vây ở đây sẽ làm hư mất mạch khí huyện kế bên, huyện bên đã đưa cáo trạng. Mà thực tế là, Tưởng Chính nghe đâu đồn có kẻ chỉ trích hắn, cho rằng là Cao Thanh Nguyên tung ra. Lại qua mặt hắn phát động dân huyện tự đắp bờ, chẳng phải là đang vả mặt hắn sao? Oán hận trong lòng mới tìm cớ hạ lệnh đình công.
Nghe nói hôm đó, Cao Thanh Nguyên đang giám sát ở bờ đê đang xây một nửa này, nhận lệnh trên xuống, tức giận không thôi, ngay tại chỗ mắng to Tưởng Chính nuốt khoản tiền triều đình phát cho công trình thuỷ lợi, nói chờ Nhiếp Chính Vương Nam tuần đến, ông sẽ đi cáo trạng.
“Ban nãy lão trượng nói hắn rước họa vào thân, giờ hắn đang ở đâu?” Thúc Thận Huy nghe xong hỏi.
“Có thôn dân quan tâm, từng đi huyện nha xem, cửa chính đóng chặt, nói là mấy hôm trương Tưởng Chính khiển trách tội phạm thượng của hắn, bắt đóng cửa hối lỗi, không được phép tham dự đón giá.”
Thúc Thận Huy đứng trước bờ đê dở dang, trầm ngâm. Nông dân làm ruộng kế bên thỉnh thoảng quăng ánh nhìn hiếu kỳ sang thư sinh đội mũ rộng vành đứng bờ sông bên này.
Y đạp bùn, đi ra khỏi thôn.
Chạng vạng tối, hạ nhân đưa cơm canh tới, Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên không có lòng nào ăn uống, ngồi trong quan đường huyện nha mình, cau mày, tâm tình nặng nề bần thần.
Cha Cao Thanh Nguyên từng là Thủy Lại địa phương, từ nhỏ ông đã đi theo mỗi lần bổ nhiệm, tận mắt nhìn thấy lũ lụt tràn lan phá hỏng ruộng đồng, tai họa dân sinh thế nào. Sau khi ra làm quan, ông liền lập chí muốn làm chút việc thực tế cho dân. Lần này gặp cản trở chèn ép vầy, mấy hôm trước, còn nhận được lời trực tiếp của cấp trên, ý là lần này Nhiếp Chính Vương Nam tuần tới đây, là vì đại kế Bắc phạt, địa phương nên trên dưới đồng lòng, chung tay hợp lực. Nếu ông dám đem chuyện nhỏ nhặt này phá hư cục diện, phá hỏng hào hứng Nhiếp Chính Vương thì hãy coi chừng.
Là uy hiếp trắng trợn.
Không chỉ thế, cũng vì hôm đó ông ăn nói phạm thượng đã bị tạm thời cách chức, mất đi tư cách đến đón giá.
Cao Thanh Nguyên ban đầu chỉ là một tiểu lại. Năm hai mươi tuổi, cha ông hy sinh vì nhiệm vụ, ông kế tục chức của cha, nhiều năm qua, được điều nhiệm đi về các nơi, chủ quản công trình thuỷ lợi, cứ thế hai mươi năm. Ba năm trước, triều đình hạ chỉ, quan lại địa phương có thể dùng đánh giá thành tích đặc biệt mà thăng chức, ông được một viên thượng quan thưởng thức mình đề cử, mới cuối cùng chuyển từ lại thành quan, đến đây làm Huyện lệnh.
Hôm đó cạnh bờ đê, ông xúc động phẫn nộ, đúng là đã nói muốn tìm Nhiếp Chính Vương cáo trạng. Nhưng trước đó ông cũng không có cơ hội tiếp cận lên trên, cũng không biết đương kim Nhiếp Chính Vương đến cùng là người thế nào, lần này Nam tuần là thật vì dân tình hay là thích việc lớn hám công to, vì tuyên dương ơn đức triều đình.
Huống chi hiện giờ, xem như ông muốn xách đầu xông vào cáo trạng cũng không còn cơ hội. Ngoài huyện nha có kẻ theo dõi sát sao, ông đã bị giam lỏng. Nhiếp Chính Vương chỉ cần ngày nào chưa đi, sợ là ông sẽ bị giam thêm ở đây ngày đó.
Nhưng nếu thật sự khuất phục như thế này, một nửa con đê đang dựng ném một bên thành công dã tràng, sau này bảo ông lấy mặt mũi nào đi đối mặt hương lão toàn huyện?
Tâm tình Cao Thanh Nguyên buồn khổ vô cùng, đi qua đi lại trong quan đường, đang sốt ruột không tính gì được, chợt nghe ngoài đường có tiếng ầm ĩ như ai đang đánh nhau.
Ông vọt ra mấy bước, thấy cửa huyện nha mở toang, một hán tử xông vào, không thèm quay đầu nhìn, nhấc chân đá người đuổi theo ngăn cản, một cước đá một tên, đám kia luôn mồm kêu thảm, bay ra ngoài ngã ngổn ngang ra đất, rên rỉ không ngừng, thấy cánh tay đã gãy xương, bị thương không nhẹ.
Hán tử thoát khỏi người, nhanh chân tiếp tục bước sang bên này.
Cao Thanh Nguyên nhìn thấy hãi hùng khiếp vía, mới đầu tưởng Tưởng Chính phái người đến muốn giết mình công khai, kinh hãi khi gan hắn to bằng trời, lại nhìn lại, mấy tay bự con bị đạp bay kia hình như mới là nanh vuốt của Tưởng Chính phái tới canh chừng ông, trong phút chốc hồ đồ luôn. Thấy người kia đến gần, là một đại hán mặt đen, dừng bước hỏi: “Ông là Cao Thanh Nguyên, Huyện lệnh vùng này?”
Cao Thanh Nguyên phản ứng lại. “Ngươi là ai?”
Người kia ghé đến gần tai ông thấp giọng nói một câu, Cao Thanh Nguyên sợ ngây người, kịp tỉnh táo lại, mới đầu còn bán tín bán nghi, nhìn ra cổng chính Huyện nha, chần chừ một lúc, hỏi: “Xin hỏi… còn túc hạ là ai?”
Lưu Hướng móc lệnh bài tùy thân chìa ra. Lệnh bài bằng đồng thau, chính giữa phía trên khắc đầu yêu quái giận dữ trợn mắt, nhe răng bốn phía, ở giữa mặt trước khắc nổi chữ “Cấm Quân ti”, mặt sau là chữ chìm nhỏ “Đại Ngụy phụng chỉ chế tạo, xuất kinh dùng”. Nhìn thấy vật này, biết không thể giả tạo, không còn nghi ngờ, lòng thầm sợ hãi mà mừng rơn, khom người tạ ơn người trước mặt rồi cất bước, chạy như điên ra ngoài. Ông chạy quá nhanh, đến ngưỡng cửa bị vấp té nhào ra đất, lại chẳng mảy may thấy đau, lại đứng dậy chạy tiếp ra khỏi cổng chính đại môn, nhìn thấy một người thanh niên thân mặc thường phục đứng ở bên ngoài, đang chắp tay sau lưng mà đứng, thân hình như tùng, ánh mắt trầm tĩnh. Thấy ông chạy ra, nhìn sang.
Cao Thanh Nguyên đương nhiên biết Nhiếp Chính Vương đương triều chưa quá hai bốn hai lăm, đang lúc tráng kiện, giờ thấy người trước mặt, lại thấy một đội tùy tùng đứng nghiêm cách anh ta không xa ngoài kia, thầm biết vị này nhất định là người đứng đầu đội Nam tuần, tâm tình kích động vô cùng, quỳ xuống, hô: “Nhiếp Chính Vương ở trên, vi thần Huyện lệnh Vĩnh Hưng Cao Thanh Nguyên tiếp giá tới chậm, Nhiếp Chính Vương thứ tội!” Nói xong dập đầu.
Thúc Thận Huy lệnh ông đứng dậy. Cao Thanh Nguyên biết mình không thể quá thất thố, cố hết sức đè tâm tình kích động xuống, chậm rãi đứng dậy.
Thúc Thận Huy ngưng mắt nhìn ông, bỗng mỉm cười: “Bổn vương nhớ tên ông. Ba năm trước, triều đình từng đặc biệt thăng chức một nhóm quan lại có tài, công văn bộ Lại lúc đó chính tay bổn vương phê ký, trong đó có ông, nghe nói trước kia lệnh tôn vì trị thủy mà mất, ông kế thừa nghiệp cha làm công trình thuỷ lợi. Lúc ấy bổn vương nhìn qua, đến nay vẫn còn ấn tượng.”
Y gật đầu: “Ông quả nhiên chưa từng phụ tín nhiệm của triều đình. Bổn vương rất hài lòng.”
Cao Thanh Nguyên lại ngẩn ra. Ông tuyệt đới không ngờ, một thứ nhỏ nhoi ba năm trước, tên mình kẹp giữa ba trăm tên người được ghi chép, Nhiếp Chính Vương một ngày trăm công ngàn việc, vậy mà đến nay không quên.
Trong giây phút này ông không chỉ kích động, mà là kích động phát run, mắt rưng rưng lệ nóng, vừa đứng dậy lại quỳ thụp xuống dập đầu liên tục, nức nở nói: “Nhiếp Chính Vương quá khen! Vi thần đã phụ tín nhiệm của Nhiếp Chính Vương. Tới đây ba năm, lo liệu một con sông gây họa mà đến giờ vẫn chưa xong. Còn phải nhọc lòng điện hạ trên đường nam tuần đầy bận rộn hỏi đến. Là tội của vi thần!”
Ông đến đây làm quan ba năm, thanh liêm thủ chính, yêu dân như con, thời gian này vì đắc tội với thượng quan vì chuyện xây đê, dân huyện đều ấm ức lo lắng cho ông, ấy hôm nay luôn có người trông chừng ở cổng huyện nha. Vừa rồi Lưu Hướng phá cửa mà vào, lại thêm động tĩnh thế này, chung quanh rất nhiều người bu lại, nghe vậy, mới biết đúng là Nhiếp Chính Vương đích thân tới, tất cả đều theo Cao Thanh Nguyên quỳ xuống. Có người chỉ lo dập đầu, có người mong biện bạch cho Huyện tôn, có người gan lớn lên án châu quan. Trong phút chốc, ngoài Huyện nha rối loạn một vùng.
Thúc Thận Huy ra hiệu Cao Thanh Nguyên dẫn dân chúng đứng dậy, nói: “Thiên tử yêu dân. Chuyến này bổn Vương nam tuần là thay Thiên tử nhìn dân, làm tai mắt cho Thiên tử. Có sâu có xa cũng là dân của thiên tử, sao lại đối đãi phân biệt? Các ngươi lập tức làm trở lại, cần phải đuổi trước kỳ nước lên năm nay mà sửa xong đê đập. Khoản tiền cần thiết cho thủy công, trong vòng ba ngày chắc chắn sẽ phát xuống!”
Chung quanh tiếng vui mừng không ngớt. Cao Thanh Nguyên dẫn dân huyện khấu tạ ơn Nhiếp Chính Vương, không màng trời đã chạng vạng, lập tức chạy đến con đê, chuẩn bị làm tiếp.
Ngày thứ ba, Thích sứ và Thái thú dẫn theo mấy trăm quan viên lớn nhỏ bản địa cùng thân sĩ có tiếng, cuối cùng chờ đội Nam tuần ở bến tàu, lại không thấy Nhiếp Chính Vương. Hai bên giật mình, tìm khắp nơi mới biết y đã tới từ trước, giờ đang ở bờ sông huyện Vĩnh Hưng, nghe nói dừng lại đã mấy ngày, tự mình giám sát.
Đám người quá sợ hãi chạy tới, đến nơi, thấy phu dân qua lại ven bờ, khí thế thi công ngất trời, Huyện lệnh Cao Thanh Nguyên đang cùng với Nhiếp Chính Vương tuần sông.
Quan viên ai nấy sợ hãi, ai mà ngờ Nhiếp Chính Vương chẳng những đến sớm, lại còn đến huyện nhỏ xa xôi này? Rối rít lên bái kiến. Nhiếp Chính Vương sai người tháo mũ quan và bào phục của Tưởng Chính ngay tại chỗ, thăng chức Cao Thanh Nguyên làm Đông Nam Hà Đạo Đặc sứ, tổng quản việc đường thủy các châu huyện Đông Nam, lại hạ lệnh nghiêm tra tham nhũng, điều tra quan viên giữ lại khoản tiền thủy công, có một trị một, tội thêm một bậc, tuyệt đối không nhân nhượng.
Y dừng ở Giang Đô tổng cộng nửa tháng. Bận rộn, ngoại trừ thăng chức Cao Thanh Nguyên và hơn mười quan viên khác có làm chuyện thực tế bên ngoài, giết Tưởng Chính và ba tên quan viên cấu kết dẫn đến lòng phẫn nộ to lớn của dân chúng răn đe. Thiên ân và sấm sét trỗi dậy xong, trong tiếng tán tụng của dân chúng Giang Đô rời đi, tiếp tục xuôi nam, cứ thế một đường tuần sát, trừng trị tham quan, đề bạt quan lại mẫn cán, chừng sau hai tháng, đến cuối tháng bảy, về đến Tiền Đường.
Quan viên bản địa đã nghe phong phanh chuyện y Nam tuần, đều biết y thiết thực khắc nghiệt, câu nói “thay thế thiên tử nhìn dân, làm tai mắt cho Thiên tử” ai ai đều biết. Tuy nói một đường y thăng chức không ít người, nhưng chặt đầu xuống, cũng là thật, ai biết kế tiếp có thể tới phiên mình không. Tiếp đón người xong, nơm nớp lo sợ, nơi nơi giữ gìn, mấy việc phô trương đã chuẩn bị xong từ mấy tháng trước đều hủy hết. Đại Ngụy hàng năm đều cấp bào phục mới cho quan viên, song hôm đi đón tiếp y, người người mặc đồ cũ, không biết còn tưởng rằng triều đình Đại Ngụy giờ phá sản, đến cả y phục quan viên cũng không phát nổi.
Nhưng chẳng ai ngờ tới, sau ba ngày Nhiếp Chính Vương tuần sát xong, hôm ấy, bỗng xếp trăm bàn yến ở hành cung ven hồ, mời các cụ từ bảy mươi toàn thành đến dự tiệc, yến hội thết đãi ba ngày. Lại buông lời, triều đình Bắc phạt, y mời trưởng giả dự tiệc chính là hy vọng có thể có kế sách hay. Đồng thời, không chỉ trưởng giả dự tiệc, mọi người dù thân phận nào, sĩ nông công thương, hòa thượng đạo sĩ, đều có thể lên nói.
Mấy chục vạn người toàn thành, thoạt đầu chẳng ai tin, mãi đến ngày thứ hai, một thợ rèn lỗ mãng xông ra, xưng mình chế tạo được một bộ kính hộ tâm trước sau có thể giúp quân sĩ tác chiến, đao thương bất nhập. Nhiếp Chính Vương bảo hắn đem ra xem. Chặt chẽ đúng là chặt chẽ, nhưng người mặc lên như đeo hai cái nồi sắt lớn trước sau, đi nhanh chút là cạch cạch rung động, đương nhiên không xài được. Cả sảnh đường cười to, thế mà Nhiếp Chính Vương không có trách mà trái lại còn khen thưởng thợ rèn, tặng hắn mực bảo, thân bút đề một tấm biển phong “Thiên hạ đệ nhất” cho hắn —— thợ rèn này là người đầu tiên dám can đảm hưởng ứng thượng sách, còn không phải thiên hạ đệ nhất ư?
Lần này không được, song Nhiếp Chính Vương cũng gần gũi dân vậy.
Người toàn thành chen chúc tới, đủ thể loại đề nghị đều có. Dĩ nhiên phần lớn là không thể dùng, không ít ý nghĩ hão huyền tầm phào, như nồi sắt lớn của Thiên hạ đệ nhất thợ rèn kia, Nhiếp Chính Vương đương nhiên không thể gặp mặt từng người. Nhưng đúng là, có mấy áo trắng đọc luận sách ngang dọc cũng có mấy phần trình độ. Gặp được họ, Nhiếp Chính Vương tự mình triệu kiến nói chuyện, không tiếc ngợi khen, thậm chí đặc biệt ban cho công danh đối với người nổi bật trong số đó.
Mấy người này sống ở một vùng sĩ tộc vùng Đông Nam, xem như giờ đây gia tộc đã lụn bại nhưng nội lực đến cùng vẫn còn mấy phần, đồng môn trải rộng thiên hạ. Được đãi ngộ thế, đều cảm thấy vô cùng vinh dự. Mới mấy ngày ngắn ngủi, văn chương ca công tụng đức vì trận xuất quan chiến của triều đình, biến thành không khí, biến thành hướng của lòng dân.
cuối, dưới hành cung bên hồ chen chen chúc chúc toàn là người, trên hồ cũng thuyền lớn nhỉ chật ních, mạn thuyền sát bên mạn thuyền như đất bằng, trẻ nít có thể chạy chơi qua lại trên hồ.
Đêm đó, nếu như không gian dưới hành cung có hạn, quả thật là người người toàn đã đến. Đang lúc quần tình kích động, bỗng thấy một người trên thuyền cao giọng hô to: “Điện hạ! Thảo dân thay mặt dân chờ lệnh, dân chúng Đông Nam ta để biểu lộ lòng trung, cam tâm tình nạp thuế ruộng vì đại kế Bắc phạt của triều đình! Mong triều đình nhận giúp!”
Lời vừa ra, một đường được truyền đi, rất nhanh sau đó, các toán người mới còn kích động trong chớp mắt toàn bộ im lặng. Cả đám quay đầu nhìn lại, thấy người lên tiếng đúng là một phú thương trong vùng. Gã cao cao đứng trên đầu thuyền nhà mình, nói dứt lời, hướng về phía hành cung dập đầu bình bịch.
Nhiếp Chính Vương đang ngồi trên một đài quan sát ở hành cung lưng chừng núi, chung quanh là quan viên trong vùng ngồi hầu cùng. Ở đó, y có thể nhìn thấy đám người dưới núi mà đám người nhìn lên, cũng có thể thấp thoáng thấy bóng hình đội mũ vàng lưng rộng.
Phú thương kia nhanh chóng được truyền đến trước mặt Nhiếp Chính Vương. Lúc này, toàn bộ ven hồ đã là hoàn toàn yên tĩnh, vạn người lặng ngắt như tờ.
Thoạt đầu y còn ngồi, lát sau, dưới ánh nhìn vạn chúng chậm rãi đứng lên, bước tới mấy bước, dừng lại, nhìn đám người cao giọng: “Đêm nay ngày tốt, Hoàng đế bệ hạ dẫu ngồi trong cung cấm, chưa thể chính tai nghe được lời nói chân thành như thế, song bệ hạ nhất định có thể cảm giác được lòng trung thành của chư vị hương lão đối với triều đình. Bản vương cũng rất cảm động.”
Y ngừng đoạn, nhìn quanh một lần, nói tiếp: “Trước khi xuất kinh lần này, Hoàng đế bệ hạ có rất nhiều căn dặn bổn Vương, trong đó có một câu, vĩnh viễn không tăng thuế!”
“Bệ hạ liên tục căn dặn, bảo bổn Vương phải thay người truyền đạt câu ấy cho bàn dân thiên hạ, để người người được biết. Thái bình thế này, cho dù có gặp quốc chiến, sẽ như trước mắt, triều đình có khó khăn cũng sẽ không kêu gọi thiên hạ bá tánh, thần dân Đông Nam các người, chịu thêm nửa phần thuế má!”
Giọng y từ cao đến thấp, từ gần đến xa, từ lưng chừng núi truyền đến chân núi, lại theo gió bay khắp mặt hồ và bốn phía, thuần hậu mà trong sáng, uy nghiêm mà bình thản.
Người người ngẩng đầu, nín thở nhìn bóng người lưng chừng núi.
“Xưa thánh hiền có câu, đạo giả đi xa, cần mượn nhờ xe ngựa. Người vượt sông biển, cần mượn nhờ thuyền bè. Hôm nay đình cũng giống vậy. Chuyện triều đình muốn làm, cần có bàn dân thiên hạ chở che. Thần dân các người, ai nấy lo chức vụ của mình. Người làm ruộng thêm cày, người nuôi tằm ra tơ, người làm buôn bán đổi hàng, đem thuế phú các người nên giao nộp sớm kịp giao nộp, quy về quốc khố, ấy là lòng trung thành lớn nhất đối với triều đình, cũng là ủng hộ lớn nhất đối với đại kế Bắc phạt!”
Lời y vừa buông, yên tĩnh ngắn ngủi qua đi, bỗng dưới núi và trên mặt hồ, tiếng vạn tuế vạn tuế vạn vạn tuế vang lên từng đợt, rồi, thiên tuế thiên tuế thiên thiên tuế, âm thanh chấn động giữa núi sông, rung chuyển lòng người.
Phục tùng trong vui vẻ này, không cần nói cũng biết.
Nhiếp Chính Vương nói xong, mỉm cười ngồi về chỗ.
Đợi âm thanh reo hò dưới núi ngừng, Thái Thú đến bên cạnh Nhiếp Chính Vương, góp lời, lòng dân hướng về, sĩ nông công thương Đông Nam các nơi, người người đều muốn góp một phần lực vì triều đình. Đã vĩnh viễn không tăng thuế, sao không tiếp nhận quyên tặng, miễn lạnh lẽo tấm lòng mọi người. Muốn biểu lộ ngợi khen có thể đưa người quyên tặng vào sách tuyên vinh, tặng thưởng những người tích cực ra sức, thí dụ như, trao vinh hàm.
Thái Thú nói xong, người chung quanh đều xưng phải. Nhiếp Chính Vương cũng gật đầu. Thái Thú lập tức sai người truyền lời xuống.
Vừa nãy phú thương máu nóng xông lên đầu xổ ra câu kia, trong lòng vô số người dưới núi đều có chút chột dạ, sợ Nhiếp Chính Vương thuận thế nói được, thầm mắng phú thương là cái vòi phun máu chó. Rất nhiều địa chủ và gia tộc quyền thế đều đã hạ quyết tâm, nếu triều đình thật sự tăng thuế, vậy nhất định phải tìm cách đánh thuế thêm lên đầu tá điền —— cách này cực chẳng đã bọn hắn mới phải làm. Đến giờ chuyển hướng, nói có thể quyên tặng, tương ứng sẽ được triều đình khen ngợi, trao tặng vinh hàm, vậy hoàn toàn khác.
Tin vừa truyền ra, không ít người xôn xao, phú thương kia là người đầu tiên nhảy dựng, bảo mình muốn quyên tặng mười vạn, thỉnh cầu duy nhất chỉ là hy vọng Nhiếp Chính Vương cũng ban thưởng hắn vài chữ, giúp đề tấm biển trước gia viên nhà hắn mới khánh thành.
Nhiếp Chính Vương cho người dẫn phú thương tới, chẳng những chính miệng ngợi khen, đồng ý đề biển, còn gọi người ghi danh hắn vào sách, nhận vinh hàm, như thế, nếu lần sau Hoàng đế bệ hạ hay y có Nam tuần lần nữa, phú thương này sẽ có tư cách cùng quan viên dự gặp mặt.
Phú thương cảm động đến rơi nước mắt, dập đầu một hơi mười cái rồi đi xuống, trong ánh mắt hâm mộ của đám đông, dương dương đắc ý rời đi.
Sau đó, Nhiếp Chính Vương tự mình mời một ly với các lão, kết thúc chuyện của y đêm nay, trong tràng cung tiễn sau lưng, y quay người vào hành cung.
Lưu Hướng đi sát sau Nhiếp Chính Vương.
Nói thật, mọi chuyện xảy ra trong đêm nay dường như cũng trong dự liệu, phù hợp với kỳ vọng —— sở dĩ nói dường như, là vì ở giữa đúng là cũng có bất ngờ. Đó chính là Lưu Hướng ban đầu vốn âm thầm sắp xếp một người cấp cao, đứng ra đề nghị góp thêm tiền của, sau đó Nhiếp Chính Vương sẽ bác bỏ, người còn chưa mở miệng, trong số người địa phương đã có phú thương tự lên tiếng trước.
Từ mai, e là văn nhân Đông Nam phải bận rộn một phen rồi.
Trong lòng ông không khỏi càng thấy bội phục Nhiếp Chính Vương.
Ông đưa Nhiếp Chính Vương vào, nhìn cửa cung đóng lại rồi mới quay đi, cho nhân viên giải tán.
Cửa cung nặng nề, khi đóng thật chặt sau lưng, mọi âm thanh ồn ào cũng đều bị ngăn ở bên ngoài.
Ý cười trên mặt Thúc Thận Huy cũng biến mất theo, đi thẳng về tẩm điện mình ở trong lần này.
Y không ở Giám Xuân các từng ở hai tháng trước, mà là một gian điện phía Tây.
Còn chưa tới lúc nghỉ ngơi. Y ngồi vào bàn, theo thói quen lật tấu chương được khoái mã đưa từ Trường An đến, lúc giơ tay phải lên, y liền nghĩ tới một người.
Y dừng tay, chậm rãi xoay chuyển nhìn vết thương trong lòng bàn tay mình.
Nàng đã rời đi hai tháng, chắc đã về Nhạn Môn từ lâu.
Giờ này đêm nay, y đã về lại đây, còn nàng, đang ở đâu? Đại doanh Nhạn Môn, hay Thanh Mộc doanh? Nàng đang làm gì? Phóng ngựa rong ruổi, tướng sĩ theo cạnh nàng, hay là đã nghỉ ngơi, nằm trong doanh trướng mình?
Chắc sau khi quay về nàng chẳng nhớ y đâu nhỉ. Còn y thế mà lại nghĩ đến nàng.
Vết thương quái quỷ lau không đi trong lòng bàn tay này luôn gợi đòn. Nhìn thấy nó, bảo sao y có thể không nhớ nàng?
Tâm tình Thúc Thận Huy lại trở nên buồn bực.
Y đặt tay xuống trong tấu chương, chậm rãi siết chặt lòng bàn tay, rồi buông, lại siết chặt, rồi buông, làm như có thể lấy đó để mau ủi vết thương đi…
Bỗng nhiên, y dừng tay lại.
Y nhớ tới một vật.
Y chần chừ một lúc. Vốn không định đi, nhưng cuối cùng vẫn không kìm chế được, ra Tây điện, đi đến Giám Xuân các nơi hai tháng trước ở cùng cô, đẩy cửa vào.
Cung nhân thắp nến, rời khỏi. Y nhìn quanh một vòng, lập tức mở hết ngăn kéo, tìm kiếm mọi chỗ có thể cất đồ, không thấy.
Y gọi cung nhân phụ trách quét dọn nơi đây hỏi: “Hai tháng trước, lúc Vương phi đi, thu dọn chỗ này, ngươi có thấy một chiếc hộp?” Y miêu tả kích thước kiểu dáng hộp.
Cung nhân lắc đầu: “Chưa từng thấy.”
Thúc Thận Huy sai người ra ngoài, chậm rãi đi tới trước cửa sổ phía Nam, mở cửa nhìn ra ngoài.
Nàng mang đi sao?
Không không, không có khả năng!
Nàng một người tuyệt tình thế, y đã nói đến vậy, tất nhiên nàng đã vứt đi.
Vô cùng có khả năng, lúc rời đi nàng tiện tay vứt luôn vào miệng hồ dưới chân núi.
Y cố hết sức kìm nén xúc động tột cùng muốn lập tức sai người xuống nước tìm mới nảy trong lòng, nhìn ra hướng kia.
Chân núi cùng trên hồ tụ lên đám người, đã ở Lưu Hướng cùng ban một người chỉ huy dưới, có thứ tự chậm rãi tán đi. Nơi xa đèn đuốc điểm điểm, trộn lẫn lấy tiếng cười tiếng ồn ào theo gió, mơ hồ đưa vào hành cung.
Thúc Thận Huy đứng đó một lúc lâu, chậm rãi quay lại nhìn bốn phía.
Tấ cả đều như trước. Giường khắc răng voi, màn trướng rũ, giường mỹ nhân trước cửa sổ, chiếc bàn con trên giường…
Cuối cùng y cởi áo, nằm lên chiếc giường đã từng cùng nàng ấy ngủ qua.
Ngủ đi.
Y mệt, rất mệt.
Y nhắm mắt, tĩnh tâm, sau chốc lát, trong hơi thở y phảng phất ngửi thấy một sợi hơi thở còn vương lại trong trướng của cô.
Lúc này có người nhẹ gõ cửa. Y không muốn. Không muốn cảm giác y vừa bắt lại được bị xua đi. Nhưng người kia tiếp tục gõ cửa, như rằng nếu y không mở sẽ không bỏ qua.
Y choàng mở mắt, giận dữ, xoay người xuống giường nhanh bước ra mở phắt cửa.
Lưu Hướng đứng ở bên ngoài.
“Chuyện gì?” Thấy là Lưu Hướng, y đè cơn giận, nhưng ngữ khí có chút không vui.
Lưu Hướng vội hành lễ: “Vi thần quấy nhiễu điện hạ nghỉ ngơi. Là mới nhận được công văn khẩn cấp của Khương Đại tướng quân từ Nhạn Môn gửi thẳng đến. Vi thần nghĩ chắc rất quan trọng, không dám trễ nãi bèn tự mình đưa tới. Mời điện hạ đích thân xem.”
Một bức thư tín niêm kín bằng xi, được hai tay nâng cung kính hiện ra trước mặt Thúc Thận Huy.