Tinh Hán Xán Lạn, May Mắn Quá Thay - Trang 4
Chương 138
Trường Thu cung như một pháo đài thủy tinh khảm chặt trên mỏm đá ngầm dưới đáy biển xa xôi, im lặng nhìn dòng nước xung quanh thay đổi, còn bản thân vẫn yên ả tĩnh lặng. Thấy Thiếu Thương vừa mệt mỏi lại thương tích đầy người, quả nhiên Hoàng hậu chẳng hỏi gì, chỉ gọi thái y đến rồi sai Địch ảo chuẩn bị nước tắm y phục.
Lần này đã băng chặt vết thương trên vai và lưng, Thiếu Thương chẳng thiết ăn uống mà nằm vật ra, cả cơ thể lẫn ý thức như vùi sâu dưới nước ấm, những khung cảnh mơ hồ đau nhức cứ dao động trong đầu. Nàng cảm thấy mình như đang mơ một chuyện rất quan trọng, nhưng lại như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Khi nàng thức giấc lần nữa đã quá trưa.
Hoàng hậu vẫn không hề hỏi han, ân cần đút nàng ăn uống, ép nàng dùng ít cháo lót dạ.
Thiếu Thương uể oải ăn một muỗng, nhìn Hoàng hậu rồi lại cúi xuống ăn một muỗng nữa.
Hoàng hậu thấu hiểu, dịu dàng nói: “Ngươi yên tâm, đã đưa Tử Thịnh lên rồi, có bị thương nhưng không ở chỗ hiểm, có thể trị khỏi. Còn ngươi đấy, mới chỉ ít hôm đã gầy sọp hẳn đi. Con gái nở nang mới hay, bằng không phải sinh con thế nào hả, mai sau ngươi và Tử Thịnh…”
Thiếu Thương ngẩng phắt đầu lên, hai mắt rưng rưng, vẻ mặt quyết tuyệt.
Hoàng hậu ngẩn người, chừng như đoán được điều gì: “Ngươi, ngươi và Tử Thịnh…”
Nhìn gương mặt hiền từ của Hoàng hậu, Thiếu Thương vô cùng xấu hổ: “Nương nương, chàng tự ý điều động quân đội, có ý làm hại Thái tử điện hạ! Vậy mà thiếp còn biện bạch cho chàng với bệ hạ…”
Hoàng hậu xua tay không cho nàng nói tiếp: “Từ nhỏ ta đã quen với chuyện luôn bị người ngoài quyết định thay. Bảo ngươi dịu dàng nhẫn nhịn, ngươi phải dịu dàng nhẫn nhịn, bảo ngươi cưới vợ cưới chồng, ngươi phải cưới vợ cưới chồng, chưa từng có ai hỏi ta muốn hay không. Đàn ông bọn họ ở ngoài làm việc, đâu có chỗ cho phụ nữ xen vào. Thiếu Thương à, sao ta có thể không hiểu nỗi khổ của ngươi.”
Hốc mắt Thiếu Thương ướt đẫm, im lặng cúi đầu ăn cháo.
“Có chuyện này ngươi vẫn chưa biết.” Hoàng hậu nói, “Đêm qua… À, thật ra sáng sớm tinh mơ hôm nay, Tam hoàng tử xông vào biệt viện của Nhữ Dương vương phủ, bắt hết mẹ con mấy người Thuần Vu thị thẩm tra, lão vương phi rất giận, muốn cáo ngự trạng…”
Thiếu Thương a lên.
“… Nhưng không cáo nổi. Vì hai canh giờ sau, Tam hoàng tử đã tìm được bằng chứng mười sáu năm trước Lăng Ích cấu kết với địch phản quốc.” Hoàng hậu bổ sung nốt nửa câu sau.
“Nhanh vậy ư!” Thiếu Thương suýt làm rớt chén canh, nàng cứ tưởng uy hiếp dụ dỗ cần ít nhất mười ngày nửa tháng.
“Có phải Tam điện hạ dùng đại hình không?” Đây là phản ứng đầu tiên của nàng.
Hoàng hậu cười: “Chưa từng dụng hình.”
Thiếu Thương khâm phục: “Òa, không ngờ Tam điện hạ lại có tài ăn nói như vậy.”
“Lão Tam không hề nói nhảm với Thuần Vu thị.” Hoàng hậu mỉm cười.
Dù Tam hoàng tử nóng tính nhưng không phải người bất cẩn, trái lại còn nhạy bén tỉ mỉ. Khi Thiếu Thương chỉ cho hắn biết hương của Thuần Vu thị, hắn lập tức hành động như một mũi tên.
Đầu tiên là bất thình lình hỏi có phải Thuần Vu thị có tội chứng của Lăng Ích không, vẻ mặt biến sắc đột ngột của Thuần Vu thị khiến Tam hoàng tử càng thêm chắc chắn, sau khi ném Thuần Vu thị cho tâm phúc từ từ thẩm tra, hắn bắt đầu đi tìm bằng chứng.
Đi tìm bằng chứng mà không có manh mối khác gì mò kim đáy biển, nhưng thực chất vẫn có dấu vết khác. Dù Thuần Vu thị kín miệng nhưng chưa chắc nô bộc của thị đã thế, Tam hoàng tử phái hết thuộc hạ phụ tá thư lại dưới trướng, lần lượt thẩm vấn bọn họ.
Chỉ trong một canh giờ ngắn ngủi, tính tình và thói quen của Thuần Vu thị đã để lộ manh mối – ngoài vụ án ầm ĩ hủy hôn náo động nhiều năm trước, xét phương diện nào Thuần Vu thị cũng chỉ là một người đàn bà nhà giàu bình thường. Lăng Ích vừa không cho bà ta nhiều tiền, cũng không cho bà ta nhiều nhân lực hữu dụng, vì thế bà ta không thể vươn dài xã giao như Tiêu phu nhân.
Dù có qua lại tốt với vài vị phu nhân, nhưng vì xuất thân bần hàn và quan hệ với Hoắc phu nhân nên Thuần Vu thị cũng không thân thiết với bọn họ; mười mấy năm qua, người thực sự thân thiết với Thuần Vu thị chỉ có Nhữ Dương lão vương phi.
Khi đó Tam hoàng tử đã đoán rõ: không có nhà ngoại, không có thế lực bản thân, vậy một người đàn bà gần như không có chỗ dựa sẽ giấu bí mật bảo vệ tính mạng ở đâu? Phải là nơi giơ tay sẽ với tới! Không thể giấu ở Lăng gia, vì Lăng Ích thận trọng sớm muộn gì cũng sẽ tìm ra.
Thế là mọi người cùng hướng mắt về lão vương phi một tháng gặp Thuần Vu thị mười lần. Nhưng Nhữ Dương vương phủ có diện tích khổng lồ, lại thêm biệt viện, trang viên, đạo quán, nếu cộng lại rồi kiểm tra kỹ lưỡng thì cũng ngót hai tháng.
“Thế tại sao lại tìm được nhanh như vậy.” Thiếu Thương tò mò, “Tìm thấy ở đâu ạ.”
Hoàng hậu nói: “Ngay trong tượng Nữ Oa trong phòng lão vương phi.”
Nhưng khi mọi người vẫn chưa lần ra manh mối, Tam hoàng tử đã nhìn thấu triệt.
Tuy Nhữ Dương vương phủ rộng lớn nhưng Thuần Vu thị không thể tự tiện đặt lung tung, ngộ nhỡ bị nô bộc vương phủ đem vứt thì sao. Cho nên, bằng chứng ấy tất phải ở trước mặt lão vương phi, hơn nữa không thể là món đồ lấy lòng chụp đuôi bình thường, lỡ đâu lão vương phi không quan tâm mà tặng cho người khác thì sao.
Nên trong những món lễ vật Thuần Vu thị liên tục gửi đến vương phủ trong những năm qua, Tam hoàng tử để ý đến pho tượng NỮ Oa nọ.
Đầu tiên, mười mấy năm trước khi lão vương phi bệnh nặng, không biết Thuần Vu thị đã thỉnh tượng từ miếu thần nào đến cầu phúc cho vương phi; thứ hai, sau khi khỏi bệnh, lão vương phi càng xem pho tượng Nữ Oa này như thần linh, ngày ngày dâng hương bái lễ, như hình với bóng; kế đó, ông ngoại của Thuần Vu thị là thợ ngõa, trong nhà còn có một lò nung…
Tam hoàng tử chẳng màng đến tiếng kêu la giãy giụa tê tâm liệt phế của lão vương phi, quả quyết cầm bức tượng Nữ Oa bằng gốm cao một mét ném mạnh xuống đất – quả nhiên bên trong có rất nhiều thẻ thư lụa trắng, là bằng chứng năm ấy Lăng Ích bắt tay với giặc!
“May mắn đã tìm ra bằng chứng, nếu trong tượng trống trơn, chắc chắn lão vương phi sẽ liều mạng với điện hạ mất!” Thiếu Thương tặc lưỡi.
Hoàng hậu lại nói: “Trên đời làm gì có chuyện chắc chắn tuyệt đối, đại trượng phu lập thế, bất kể hành quân dàn trận hay mưu toan lòng người, nếu không dám mạo hiểm, cứ sợ đầu sợ đuôi sẽ khiến kẻ khác chê cười.”
Thiếu Thương nhận ra ám chỉ của Hoàng hậu, ngẩng đầu nhìn bà: “Nương nương, có phải từ lâu nương nương đã phát hiện Tử Thịnh đại nhân không trung thành với Thái tử không?”
Hoàng hậu nhìn không trung, nói: “Không hẳn là phát hiện, chỉ là ta đã chứng kiến nhiều. Có câu phượng hoàng tất đậu cây ngô đồng, Tử Thịnh là phượng hoàng, nhưng Thái tử không phải ngô đồng. Lão Nhị lại càng không phải, chỉ có lão Tam…”
Thiếu Thương buồn bã, bèn kể lại chuyện ở lăng viên Đông Bách, còn bảo: “Thực ra Tử Thịnh đại nhân và Tam hoàng tử đã quen nhau từ rất lâu, nên Tam điện hạ mới là người chàng trung thành.”
“Hóa ra là vậy.” Hoàng hậu nhớ lại, “Khi ấy ta còn bảo lạ. Nếu sơ sẩy rơi xuống nước, vì sao trên người Tử Thịnh chỉ có áo lót? Thái tử lại nói có thể Thái tử ham chơi nên tự xuống nước. Nhưng ta biết Tử Thịnh trưởng thành sớm, sẽ không mạo hiểm không cần thiết, nó lại không biết bơi, nếu muốn xuống nước ắt sẽ sai người đứng canh, hoặc trên người thắt dây thừng… Hầy, Thái tử là vậy đấy, kém xa lão Tam trong khoản thấu rõ lòng người và quyết đoán.”
Thiếu Thương thấp giọng: “Nương nương đừng nói Thái tử như vậy. Thái tử nhân hậu hiền lành, chẳng qua…”
“Là quân vương, điều cần thiết không phải nhân hậu hiền lành mà là thưởng phạt phân minh.” Hoàng hậu quả quyết, “Đạo quân thần tức là gì. Là bề tôi lao vào nơi dầu sôi lửa bỏng vì quân vương, quên đi sóng chết; còn quân vương phải tin tưởng, bao che ban thưởng.”
“Hai ngày qua, lão Tam không ngại đương đầu chạy ngược chạy xuôi, đến Đình Úy, thẩm vấn binh lính, xông vào vương phủ, bức ép thúc tổ, lại còn biện hộ cho Tử Thịnh ở ngự tiền, gây nên bao lời ngấm ngầm chỉ trỏ, nói lão Tam và Tử Thịnh đã cấu kết với nhau từ lâu… Nhưng ta biết, trong mắt người có lòng, quân vương như thế mới là bậc quân vương tốt. Nếu là ta, ta cũng sẵn sàng trả mạng vì quân vương như lão Tam.”
“Như Kiền An vương phủ năm xưa chẳng hạn, đội ngũ lẫn danh vọng của cữu phụ hơn hẳn bệ hạ, nhưng trong mắt rất nhiều bề tôi, bệ hạ mới là minh quân đáng để quy thuận. Bằng không, khi cữu phụ mưu đồ gây rối đã không có một nửa mưu sĩ tướng lĩnh không muốn đi theo.”
Thiếu Thương biết điều Hoàng hậu nói thật, nhưng càng như vậy trong lòng càng khó chịu.
Cái lạnh đầu xuân vẫn chưa vơi, mặt trời sớm tắt lửa, chỉ mới vài câu nói mà bên ngoài đã tối đen. Bỗng đúng lúc này Sầm An Tri đến chuyển lời, báo rằng Hoàng hậu đã có thể đến.
Nhìn vẻ mặt hồ nghi của Thiếu Thương, Hoàng hậu nói: “Ta có nói với bệ hạ, bao giờ Tử Thịnh tỉnh thì gọi ta tới. Ngươi có đi cùng không.”
Thiếu Thương không muốn đi, ngập ngừng nói: “Lăng đại nhân…”
“Giờ nó đã họ Hoắc. Bệ hạ tính bảo nó đổi lại tên cũ là Vô Thương, nhưng Tử Thịnh nhất quyết gọi là Bất Nghi – lấy đó an ủi Hoắc phu nhân đã qua đời, cả đứa trẻ đáng thương đã dâng mạng thay nó nữa.” Hoàng hậu nói.
Thiếu Thương rầu rĩ – A Ly cướp tên của A Tranh, vì vậy A Tranh mới thoát chết, dùng tên của A Ly tiếp tục sống trên đời này. Nàng hoàn hồn, nói nhỏ: “Thái tử điện hạ không đến ạ?”
Hoàng hậu nói: “Ta đã cấm nó mấy ngày nay không được bước chân ra khỏi Đông cung, cũng đừng nhúng tay vào… Hầy, chỉ cần Thái tử không nhúng tay.”
Thiếu Thương cùng Hoàng hậu ngồi trên kiệu phượng, ánh đèn trập trùng giữa cung hẻm tối mù, có cảm giác như đang đi trong mơ, khung cảnh kỳ quặc y như đang tưởng tượng. Cung điện tối nay có vẻ nghiêm túc tĩnh lặng hơn mọi khi, cung nữ hoạn quan im lặng qua lại, không một biểu hiện, cũng không một âm thanh.
Trong tẩm cung của Hoàng đế nồng mùi thuốc, ngoài điện là nhóm ngự y đang đứng chờ gọi.
Hoàng hậu không bước vào từ cửa chính mà được một tiểu hoàng môn dẫn đi vòng từ thiên điện, đi chừng nửa khắc đồng hồ, bọn họ tới một căn phòng tinh tế tĩnh mật, dưới đất trải thảm nhung dày, dù hạ chân cũng không vang tiếng động.
Giữa phòng giăng một bức rèm to rũ chạm đất, làm từ gấm dày nặng, bên trên thêu hoa văn dã thú dày đặc và phức tạp, ngăn cách bên trong với bên ngoài.
Hoàng hậu ngồi trên đôn ghế cạnh tấm rèm gấm, vẫy tay với Thiếu Thương. Thiếu Thương bèn đi đến ngồi xuống, theo hướng Hoàng hậu chỉ tay, giữa rèm gấm dày có một đường hở có thể để bọn họ nhìn thấy tình hình ngoài phòng.
Thiếu Thương tới gần kẽ hở nheo mắt nhìn, có hai người đang quỳ bên ngoài, một là Tam hoàng tử, một là… Đầu nàng ong lên, suýt đã không thể ngồi vững. Lúc nãy Hoàng hậu nói nàng gầy sọp đi, nàng không có soi gương, không biết gầy sọp đi là như thế nào, nhưng giờ nàng đã hiểu rồi.
Tam hoàng tử đang nói chuyện, Hoắc Bất Nghi né người lắng nghe.
Chàng mặc trung y lụa trắng, khoác một chiếc áo choàng nhung đen dày trên vai, vạt áo để hở lộ ra lồng ngực như ngọc, dải băng quấn quanh thấm máu, mái tóc dài đen bóng như lông quạ được vấn nhẹ bằng trâm bạch ngọc mộc mạc không hoa văn, khuôn mặt gầy gò xanh xao làm viền tóc mai hằn vẻ màu lam u ám.
“… Kỷ Tuân tìm mười mấy tiến sĩ so sánh bút tích, Lăng Ích không phải xuất thân là kẻ có học, sẽ không biết dùng nhiều kiểu chữ nên so sánh rất dễ – đó chính là nét chữ của Lăng Ích!” Tam hoàng tử vô cùng xem thường, “Bây giờ đám mắt mù kia còn nói gì được nữa. Hừ, ngay trước vỗ ngực đảm bảo cho Lương Ích chính là họ, giờ rụt cổ không thấy bóng dáng cũng vẫn là họ!”
“Điện hạ tranh cãi ít thôi.” Hoắc Bất Nghi thấp giọng nói, giọng trầm khàn.
“Đêm qua phụ hoàng đã chứng thật thân phận của Tử Thịnh, vậy mà đám vô liêm sỉ kia vẫn còn mồm mép, nghị luận gì mà ‘tòa thành lớn như vậy, Lăng Ích có bao nhiêu nhân lực để mà phá thành diệt tộc’. Nói nhảm, có câu đê dài ngàn dặm hủy trong phút chốc, với mưu kế vô tình thì thiếu gì cách!” Tam hoàng tử cười lạnh.
Chỉ trong một đêm, Hoàng đế như già đi mấy tuổi, nét mặt tang thương: “A Tranh, trước lúc lâm chung phụ thân khanh có nói gì không?… Lần này suýt đã toi mạng. Khanh, khanh nói từ từ thôi.”
Con tim Hoắc Bất Nghi đã đau đớn đến mức chết lặng, trước mắt hiện lên cảnh phụ thân cao lớn như núi ngã sụp xuống, chỉ chớp mắt ngắn ngủi, thời thơ ấu trong vòng tay phụ từ mẫu ái của chàng đã kết thúc.
“Lúc ấy chúng thần đã bị bủa vây rất lâu, trong thành thiếu rất nhiều thứ, không thể no bụng cũng không thể chống rét. May rằng kề lưng vào núi Tuần Dương nên vẫn đảm bảo được nguồn nước trong thành. Xế trưa hôm ấy, A Ly cầm hai quả hạnh đến khoe, nói muốn đổi xiêm y của thần ra ngoài chơi, vì cô mẫu quản thúc đệ ấy quá chặt. Do đã lâu thần chưa được ăn trái cây… nên đã đồng ý.” Giọng của Hoắc Bất Nghi ngày một thấp.
Ngực Hoàng đế đau đớn.
Hoắc thị huyện Phong vốn là vọng tộc giàu có bậc nhất, dù ngoài kia trải qua thiên tai nhân họa thế nào thì Hoắc gia cũng chưa bao giờ thiếu hụt, vậy mà ấu tử của Hoắc Xung lại có thể thèm một quả hạnh, đủ biết tình hình vây thành khi ấy khó khăn đến nỗi nào!
Trông thoáng chốc, Hoàng đế nhớ lại câu hỏi của Hoắc Xung trước khi ra đi.
“Bệ hạ đi trước chặn đánh Thương Hổ quân, cần thần ở sau ngăn cản giặc Man bao lâu?”
“Đi đường mất một tháng, quay về cũng một tháng, bài binh bố trận lại thêm nửa tháng, tính toán sẽ chừng ba tháng!”
“Đa số Thương Hổ quân là hảo hán lục lâm bị ép tạo phản, ngay tới vị thủ lĩnh cũng không thể hàng phục, thần cho rằng bệ hạ không nên công kích mạnh, mà cần vừa đánh vừa hóa giải, âm thầm lôi kéo sẽ tốt hơn. Nếu có thể thu phục ba trăm ngàn quân Thương Hổ kiêu dũng thiện chiến, cơ nghiệp đóng đô thiên hạ của bệ hạ ắt sẽ thành!”
“… Nhưng như vậy ít cũng mất nửa năm.”
“Vậy thần sẽ trấn thủ nửa năm!”
Hoàng đế ôm ngực nhức nhối, mắt hổ ngấn lệ, hận thời gian không thể quay về quá khứ, thà bình định thiên hạ trễ hai mươi năm cũng không muốn mất đi nghĩa huynh.
Hoắc Bất Nghi lại nói: “Thần và A Ly rất giống nhau, đệ ấy mặc xiêm y của thần ngông nghênh đến võ trường chơi. Thần ăn một quả hạnh, nhớ lại mẫu thân nói phụ thân cũng thích quả hạnh, nên không ăn nốt quả thứ hai. Thần lén vào thư phòng của phụ thân đặt quả hạnh lên bàn ông ấy, nào ngờ vừa đặt thì nghe thấy bên ngoài có người đến. Thần hốt hoảng, bèn nấp vào ám các sau kệ sách.”
“Người vào chính là phụ thân và Lăng Ích. Nghe bọn họ nói chuyện, thần mới biết hôm trước phụ thân đã bị thương khi lên đầu thành. Phụ thân nói chỉ là vết thương nhẹ, nhưng thực chất không phải, ông không nói vì sợ lòng quân dao động, cũng tránh để mẫu thân lo lắng. Phụ thân không tiết lộ với người nào, chỉ sai chú Lý lén trị thương cho mình, nào ngờ lại bị Lăng Ích nhận ra. Lăng Ích tinh thông y thuật, bèn bảo sẽ trị thương cho phụ thân.”
“Phụ thân rất mất kiên nhẫn với Lăng Ích, bảo ông ta mau dẫn người lên đầu thành đi, đừng có nấp ở phía sau nữa, Lăng Ích luôn miệng dạ vâng. Thần thấy hắn đứng sau lưng phụ thân, từng châm từng châm vá vết thương cho phụ thân…” Mặt chàng đau đớn, “Thế rồi tay áo Lăng Ích lóe lên, một con dao găm trượt ra. Hắn cắt đứt cổ họng phụ thân chỉ trong một đao, phụ thân không thể la lên, chỉ biết ôm cổ nhìn Lăng Ích, sau đó ngã xuống vũng máu.”
Hoàng đế đau đớn kêu lên, ôm mặt khóc nức.
“Hành sự xong Lăng Ích vẫn chưa đi, mà lục lọi một lúc trong thư phòng phụ thân, sau đó cắt đầu của phụ thân dấu trong ngực chạy trốn, trước khi đi còn châm đuốc đốt thư phòng. Thần nấp trong ám các, cứ tưởng sẽ bị thiêu chết. May sao mấy hôm ấy trời ẩm ướt, Lăng Ích không mang theo dầu lửa nên thư phòng chỉ cháy một nửa.”
“Ám các được xây bằng gạch xanh, ngoài ra còn có lỗ thông hơi mở rộng phía sau, nhưng thần vẫn bị khói lửa làm ngất xỉu, đến lúc tỉnh lại thì bên ngoài đã tối mù, đánh nhau liên tục, thây đổ khắp nơi.” Hoắc Bất Nghi nhớ lại cơn ác mộng đêm ấy.
Thi thể máu tươi chảy đầy đất, tỳ nữ quần áo xộc xệch và gia đinh bị cụt tay cụt chân, tỳ nữ xinh đẹp đã thêu hình lên xiêm y chàng, vì sao bị chém mà toàn thân vẫn lõa lồ, vì sao tiểu thị vệ suốt ngày muốn tòng quân lại mất một nửa cái đầu, ruột gan phọt cả ra ngoài… Mẫu thân ta đâu, ba a tỷ đâu, đúng rồi, còn cả hai huynh trưởng, bọn họ là thiếu niên anh hùng, tuyệt đối sẽ không bó tay chịu trói.
Không biết chạy đã bao lâu, A Tranh bé nhỏ nghe thấy tiếng chém giết ở đầu kia vọng đến, chàng ngoái đầu, nhìn thấy Hoắc Quân Hoa đang đi tìm con trai dưới sự bảo vệ của các thị vệ, bà kêu lên ‘A Ly, A Ly của mẹ, con đang ở đâu…”
Lúc này, Hoắc Quân Hoa nhìn thấy cháu trai đang mặc xiêm y của A Ly, chàng cũng nhìn thấy cô mẫu xấu tính, hai cô cháu ngẩn ngơ nhìn nhau. Một gã thị vệ vừa chống cự kẻ địch xông đến vừa hô to: “Phu nhân, tìm thấy tiểu công tử rồi!”
Hoắc Bất Nghi bé nhỏ đang định hô lên ‘dượng giết phụ thân’ thì Hoắc Quân Hoa đã hét lớn, nhào đến ôm chặt mình, sau đó vừa khóc vừa cười ‘A Ly, cuối cùng mẫu thân cũng tìm thấy con rồi, chúng ta đi nhanh lên, thành đã bị công phá’!
Lúc ấy chàng điếng người, dù cả thế giới có nhận nhầm chàng và A Ly thì cô mẫu tuyệt đối sẽ không nhận nhầm! Chàng không hiểu vì sao, nhưng chàng biết lúc này mình không thể để lộ, nên cứ để Hoắc Quân Hoa ôm mình đi.
“Cẩu tặc Lăng Ích không biết đánh giặc, nhưng âm mưu quỷ kế quá nhiều.” Tam hoàng tử cười lạnh, “Thật sự nên gọi đám mắt mù kia đến xem thư tín lụa trắng của Lăng Ích, lĩnh giáo xem thứ gì gọi là ‘âm mưu không kẽ hở’!”
Muốn tính kế một tòa thành phòng thủ vững chãi thì cần bao nhiêu nhân lực, cần quyền năng lớn tới đâu? Thực ra rất nhiều người đã nghĩ sai, chỉ cần không ai đề phòng ngươi, rót độc vào chỗ mấu chốt là đủ.
Qua lời tự thuật của Hoắc Bất Nghi và Tam hoàng tử, Thiếu Thương dần dà hiểu ra chân tướng năm đó.
Hoắc Xung vốn chỉ dẫn theo quân đội, nhưng tòa thành trì đó vừa đoạt được từ tay kẻ địch, lòng dân bất ổn, cho nên ông đành dẫn cả nhà già trẻ vào thành, chứng minh quyết tâm sống chết cùng nhau. Trải qua hai tháng xử lý, truy tìm gián điệp, kiểm tra dân số lương thực, biếm xích gian thường, người dân trong thành đã kính phục nhân phẩm và bản lĩnh của Hoắc Xung.
Thời hạn nửa năm theo thỏa thuận đã kết thúc, vậy mà vẫn không hay tin từ viện binh. Trong thành binh mệt ngựa mỏi, thương binh đau ốm, hai vạn giáo quân ở ngoài thành cũng đã mất hơn nửa, hai phe giết đỏ cả mắt, ai cũng biết ngày phá thành chính là lúc đồ thành, vậy nên Lăng Ích mới dao động.
Cô thành đó có cửa thành khắp ngõ, được tứ đại gia tướng của Hoắc Xung trấn thủ, trùng hợp thế nào Lý phó tướng trong số đó bị thương chưa khỏi, Hoắc Xung có vẻ muốn Lăng Ích vào thay. Sau khi ám sát Hoắc Xung, Lăng Ích cầm lệnh phù của Hoắc Xung đến tiếp quản cửa thành, các tướng quân thủ thành không hồ nghi nhường lại.
Lúc ấy gia đinh của Hoắc gia vừa dập lửa ở thư phòng, phát hiện ra một thi thể không đầu. Quần áo cơ thể thi thể bị thiêu cháy khó nhận diện, binh lính trong phủ chắc chắn không ngờ chúa công thần dũng cái thế nhà mình lại bị ám sát, thế là mời Hoắc Xung phu nhân đến làm chủ.
Khi sự chú ý của mọi người ở Hoắc trạch dồn lên thư phòng, Lăng Ích đã mở cửa để giặc xông vào, đồng thời phóng hỏa rất nhiều nơi trong thành, hò hét rằng ‘Hoắc Xung bỏ thành lẻn trốn’! Giặc Man vốn đông gấp mấy lần quân đội trong thành, vừa vào thành thì tức khắc như sói vào bầy dê.
Tới khi tướng lĩnh trấn thủ lấy lại bình tĩnh, bày trận ứng chiến trong thành thì Lăng Ích lại để giặc Man cắm đầu lâu của Hoắc Xung treo lên cao, ngay lập tức bầy rồng mất đầu, lòng quân tan vỡ. Giặc Man tức tốc tiến quân, đồ sát gia tộc Hoắc thị!
Hoắc Bất Nghi kể lại: “Cô mẫu dẫn thần trốn vào núi Tuần Dương, khi chạy trong thành, thần nhìn thấy đầu lâu của phụ thân bị cắm trên tường thành, bên cạnh là A Ly đang mặc xiêm y của thần. Cô mẫu thấy thế thì khóc rất to, sau đó nói với những người khác là thần bị kinh hãi, vốn dĩ ốm yếu nên đã đổ bệnh, không thể gặp ai. Khi Lăng Ích và Ngô đại tướng quân ở ngoài giết địch, bà đã đưa thần đi trốn.”
Suy cho cùng cũng là vợ chồng, đương nhiên Hoắc Quân Hoa cũng phát hiện ra vài điểm. Đúng là bà định đi tìm con, nhưng vừa đi ra đã thấy thi hài la liệt Hoắc phủ, cuối cùng bà cũng đã hiểu mọi chuyện. Dưới sự ‘bảo vệ’ của thị vệ Lăng phủ, bà đành phải nhận A Tranh.
Nhưng những chuyện này Lăng Ích không biết, hắn nấp trong bóng tối, mắt nhìn Hoắc gia bị tiêu diệt sạch sẽ mới thở phào.
Nhưng hắn không ngờ khoảng nửa ngày sau Ngô đại tướng quân đã đến. Lúc ấy giặc Man đang chìm đắm trong cơn phê đồ thành cướp bóc, nên Lăng Ích nhận được tin sớm hơn giặc Man.
Lăng Ích rất biết nhìn thời cơ, chẳng những lập tức quay về núi Tuần Dương mà còn giả vờ đau đớn với Ngô đại tướng quân vừa đuổi đến, đồng thời bày tỏ quyết tâm sống mái với tặc khấu. Thế là hắn giúp Ngô đại tướng quân đóng ba cửa thành, chặn lại đa số giặc Man đang ở trong thành…
Kể tới đây, Tam hoàng tử nhếch mép, “Ngô Thành mà, phụ hoàng biết đấy, một khi nổi máu tàn sát thì không ai có thể ngăn cản. Bình thường chém giết vô số còn sợ kẻ khác nói ông ta đồ thành bất nghĩa, nhưng bấy giờ là trả thù rửa hận, có thể vung đao. Nói tóm lại, đám giặc Man vào thành dù buông vũ khí đầu hàng cũng bị giết sạch. Ngày hôm sau, Ngô đại tướng quân thừa thắng truy kích giặc Man ngoài thành, đại hoạch toàn thắng.”
Liên thủ với Lăng Ích là bí mật, không nhiều thủ lĩnh quân địch biết được chuyện này, nên khi chuyện xảy ra vội vã cũng không có sắp xếp khác. Âu cũng là cái may của Lăng Ích, Ngô đại tướng quân gặp người thì giết, giết xong con châm lửa đốt quân nhu doanh trướng của giặc Man, như thế không ai có thể xác nhận được tội ác của ông ta.
Lúc ấy Lăng Ích mới biết vợ con thất lạc trong loạn quân, ông ta rất sợ. Để không bị Hoàng đế giận cá chém thớt, anh em Lăng thị đã mưu tính suốt đêm – tuyệt đối không thể Hoắc gia chết sạch mà Lăng gia còn bình an.
Thế là nhân lúc Ngô đại tướng quân đang xông pha phía trước, bọn chúng đẩy một bộ phận ‘người nhà’ vào loạn binh, bao gồm một nhà thúc phụ sống dựa vào Lăng gia, hai nhà vợ của Lăng lão nhị và cả gia đình huynh đệ kết nghĩa của Lăng lão tam…
Nói tóm lại, ngoại trừ ba anh em Lăng gia và trẻ nhỏ ở lại núi Tuần Dương, cùng với vợ của Lăng lao tam may mắn ở quê chờ sinh, Lăng gia cũng được coi như ‘cả nhà trung liệt’.
“Vì sao lúc ấy các ngươi không đến tìm trẫm!” Hoàng đế đập mạnh xuống bàn.
Hoắc Bất Nghi cười thảm: “Bệ hạ, nếu lúc ấy thần không phải chỉ mới năm sáu tuổi, chắc chắn sẽ cáo ngự trạng.” Nếu lúc ấy Tiểu A Tranh có được mưu trí và sự gan dạ sáng suốt của Hoắc Bất Nghi bây giờ, đương nhiên sẽ tố cáo thẳng.
Nhưng chàng đâu được như thế.
Lúc ấy chàng chỉ mới năm sáu tuổi, kinh hãi không biết cậy nhờ ai, Hoắc Quân Hoa là chỗ dựa duy nhất của chàng.
Hoắc Quân Hoa cho rằng Hoàng đế và Ngô đại tướng quân sẽ không tin tưởng lời mình, hơn nữa nếu Lăng Ích luôn mồm nhận định A Tranh là con trai ông ta, chắc chắn Hoàng đế sẽ không đếm xỉa đến bà. Một khi Lăng Ích cướp con trai về, không phải A Tranh sẽ rơi vào tay giặc ư? Nếu Lăng Ích muốn ám toán A Tranh, chắc chắn rất khó để đề phòng.
Nhưng khi Hoắc Bất Nghi vào cung thì mới dần dần hiểu ra, chàng và Hoắc Quân Hoa đã mất đi cơ hội minh oan tốt nhất.
Bề ngoài của chàng đã thay đổi, không ai có thể chứng minh chàng là A Tranh hay A Ly, những ‘tâm phúc’ biết được hành vi Lăng Ích cấu kết với địch cũng dần dần ‘biến mất’ trong hai ba năm ấy.
Chàng đành ngậm đắng nhẫn nhịn, âm thầm tìm chứng cứ Lăng Ích bỏ sót.
Trong thời gian mười sáu năm, Hoắc Bất Nghi như đang tranh đấu cùng Lăng Ích. Hoắc Bất Nghi cố gắng trưởng thành, năm này qua năm khác nuôi dưỡng thế lực của mình lớn mạnh, hòng âm thầm điều tra; còn Lăng Ích đã thu lại nanh vuốt, năm này qua năm khác bù lấp chỗ khuyết, che giấu san bằng những sai lầm năm xưa.
Nhưng kỳ thực, đến cuối cùng người thua lại là Hoắc Bất Nghi.
Lần này đã băng chặt vết thương trên vai và lưng, Thiếu Thương chẳng thiết ăn uống mà nằm vật ra, cả cơ thể lẫn ý thức như vùi sâu dưới nước ấm, những khung cảnh mơ hồ đau nhức cứ dao động trong đầu. Nàng cảm thấy mình như đang mơ một chuyện rất quan trọng, nhưng lại như chẳng có chuyện gì xảy ra.
Khi nàng thức giấc lần nữa đã quá trưa.
Hoàng hậu vẫn không hề hỏi han, ân cần đút nàng ăn uống, ép nàng dùng ít cháo lót dạ.
Thiếu Thương uể oải ăn một muỗng, nhìn Hoàng hậu rồi lại cúi xuống ăn một muỗng nữa.
Hoàng hậu thấu hiểu, dịu dàng nói: “Ngươi yên tâm, đã đưa Tử Thịnh lên rồi, có bị thương nhưng không ở chỗ hiểm, có thể trị khỏi. Còn ngươi đấy, mới chỉ ít hôm đã gầy sọp hẳn đi. Con gái nở nang mới hay, bằng không phải sinh con thế nào hả, mai sau ngươi và Tử Thịnh…”
Thiếu Thương ngẩng phắt đầu lên, hai mắt rưng rưng, vẻ mặt quyết tuyệt.
Hoàng hậu ngẩn người, chừng như đoán được điều gì: “Ngươi, ngươi và Tử Thịnh…”
Nhìn gương mặt hiền từ của Hoàng hậu, Thiếu Thương vô cùng xấu hổ: “Nương nương, chàng tự ý điều động quân đội, có ý làm hại Thái tử điện hạ! Vậy mà thiếp còn biện bạch cho chàng với bệ hạ…”
Hoàng hậu xua tay không cho nàng nói tiếp: “Từ nhỏ ta đã quen với chuyện luôn bị người ngoài quyết định thay. Bảo ngươi dịu dàng nhẫn nhịn, ngươi phải dịu dàng nhẫn nhịn, bảo ngươi cưới vợ cưới chồng, ngươi phải cưới vợ cưới chồng, chưa từng có ai hỏi ta muốn hay không. Đàn ông bọn họ ở ngoài làm việc, đâu có chỗ cho phụ nữ xen vào. Thiếu Thương à, sao ta có thể không hiểu nỗi khổ của ngươi.”
Hốc mắt Thiếu Thương ướt đẫm, im lặng cúi đầu ăn cháo.
“Có chuyện này ngươi vẫn chưa biết.” Hoàng hậu nói, “Đêm qua… À, thật ra sáng sớm tinh mơ hôm nay, Tam hoàng tử xông vào biệt viện của Nhữ Dương vương phủ, bắt hết mẹ con mấy người Thuần Vu thị thẩm tra, lão vương phi rất giận, muốn cáo ngự trạng…”
Thiếu Thương a lên.
“… Nhưng không cáo nổi. Vì hai canh giờ sau, Tam hoàng tử đã tìm được bằng chứng mười sáu năm trước Lăng Ích cấu kết với địch phản quốc.” Hoàng hậu bổ sung nốt nửa câu sau.
“Nhanh vậy ư!” Thiếu Thương suýt làm rớt chén canh, nàng cứ tưởng uy hiếp dụ dỗ cần ít nhất mười ngày nửa tháng.
“Có phải Tam điện hạ dùng đại hình không?” Đây là phản ứng đầu tiên của nàng.
Hoàng hậu cười: “Chưa từng dụng hình.”
Thiếu Thương khâm phục: “Òa, không ngờ Tam điện hạ lại có tài ăn nói như vậy.”
“Lão Tam không hề nói nhảm với Thuần Vu thị.” Hoàng hậu mỉm cười.
Dù Tam hoàng tử nóng tính nhưng không phải người bất cẩn, trái lại còn nhạy bén tỉ mỉ. Khi Thiếu Thương chỉ cho hắn biết hương của Thuần Vu thị, hắn lập tức hành động như một mũi tên.
Đầu tiên là bất thình lình hỏi có phải Thuần Vu thị có tội chứng của Lăng Ích không, vẻ mặt biến sắc đột ngột của Thuần Vu thị khiến Tam hoàng tử càng thêm chắc chắn, sau khi ném Thuần Vu thị cho tâm phúc từ từ thẩm tra, hắn bắt đầu đi tìm bằng chứng.
Đi tìm bằng chứng mà không có manh mối khác gì mò kim đáy biển, nhưng thực chất vẫn có dấu vết khác. Dù Thuần Vu thị kín miệng nhưng chưa chắc nô bộc của thị đã thế, Tam hoàng tử phái hết thuộc hạ phụ tá thư lại dưới trướng, lần lượt thẩm vấn bọn họ.
Chỉ trong một canh giờ ngắn ngủi, tính tình và thói quen của Thuần Vu thị đã để lộ manh mối – ngoài vụ án ầm ĩ hủy hôn náo động nhiều năm trước, xét phương diện nào Thuần Vu thị cũng chỉ là một người đàn bà nhà giàu bình thường. Lăng Ích vừa không cho bà ta nhiều tiền, cũng không cho bà ta nhiều nhân lực hữu dụng, vì thế bà ta không thể vươn dài xã giao như Tiêu phu nhân.
Dù có qua lại tốt với vài vị phu nhân, nhưng vì xuất thân bần hàn và quan hệ với Hoắc phu nhân nên Thuần Vu thị cũng không thân thiết với bọn họ; mười mấy năm qua, người thực sự thân thiết với Thuần Vu thị chỉ có Nhữ Dương lão vương phi.
Khi đó Tam hoàng tử đã đoán rõ: không có nhà ngoại, không có thế lực bản thân, vậy một người đàn bà gần như không có chỗ dựa sẽ giấu bí mật bảo vệ tính mạng ở đâu? Phải là nơi giơ tay sẽ với tới! Không thể giấu ở Lăng gia, vì Lăng Ích thận trọng sớm muộn gì cũng sẽ tìm ra.
Thế là mọi người cùng hướng mắt về lão vương phi một tháng gặp Thuần Vu thị mười lần. Nhưng Nhữ Dương vương phủ có diện tích khổng lồ, lại thêm biệt viện, trang viên, đạo quán, nếu cộng lại rồi kiểm tra kỹ lưỡng thì cũng ngót hai tháng.
“Thế tại sao lại tìm được nhanh như vậy.” Thiếu Thương tò mò, “Tìm thấy ở đâu ạ.”
Hoàng hậu nói: “Ngay trong tượng Nữ Oa trong phòng lão vương phi.”
Nhưng khi mọi người vẫn chưa lần ra manh mối, Tam hoàng tử đã nhìn thấu triệt.
Tuy Nhữ Dương vương phủ rộng lớn nhưng Thuần Vu thị không thể tự tiện đặt lung tung, ngộ nhỡ bị nô bộc vương phủ đem vứt thì sao. Cho nên, bằng chứng ấy tất phải ở trước mặt lão vương phi, hơn nữa không thể là món đồ lấy lòng chụp đuôi bình thường, lỡ đâu lão vương phi không quan tâm mà tặng cho người khác thì sao.
Nên trong những món lễ vật Thuần Vu thị liên tục gửi đến vương phủ trong những năm qua, Tam hoàng tử để ý đến pho tượng NỮ Oa nọ.
Đầu tiên, mười mấy năm trước khi lão vương phi bệnh nặng, không biết Thuần Vu thị đã thỉnh tượng từ miếu thần nào đến cầu phúc cho vương phi; thứ hai, sau khi khỏi bệnh, lão vương phi càng xem pho tượng Nữ Oa này như thần linh, ngày ngày dâng hương bái lễ, như hình với bóng; kế đó, ông ngoại của Thuần Vu thị là thợ ngõa, trong nhà còn có một lò nung…
Tam hoàng tử chẳng màng đến tiếng kêu la giãy giụa tê tâm liệt phế của lão vương phi, quả quyết cầm bức tượng Nữ Oa bằng gốm cao một mét ném mạnh xuống đất – quả nhiên bên trong có rất nhiều thẻ thư lụa trắng, là bằng chứng năm ấy Lăng Ích bắt tay với giặc!
“May mắn đã tìm ra bằng chứng, nếu trong tượng trống trơn, chắc chắn lão vương phi sẽ liều mạng với điện hạ mất!” Thiếu Thương tặc lưỡi.
Hoàng hậu lại nói: “Trên đời làm gì có chuyện chắc chắn tuyệt đối, đại trượng phu lập thế, bất kể hành quân dàn trận hay mưu toan lòng người, nếu không dám mạo hiểm, cứ sợ đầu sợ đuôi sẽ khiến kẻ khác chê cười.”
Thiếu Thương nhận ra ám chỉ của Hoàng hậu, ngẩng đầu nhìn bà: “Nương nương, có phải từ lâu nương nương đã phát hiện Tử Thịnh đại nhân không trung thành với Thái tử không?”
Hoàng hậu nhìn không trung, nói: “Không hẳn là phát hiện, chỉ là ta đã chứng kiến nhiều. Có câu phượng hoàng tất đậu cây ngô đồng, Tử Thịnh là phượng hoàng, nhưng Thái tử không phải ngô đồng. Lão Nhị lại càng không phải, chỉ có lão Tam…”
Thiếu Thương buồn bã, bèn kể lại chuyện ở lăng viên Đông Bách, còn bảo: “Thực ra Tử Thịnh đại nhân và Tam hoàng tử đã quen nhau từ rất lâu, nên Tam điện hạ mới là người chàng trung thành.”
“Hóa ra là vậy.” Hoàng hậu nhớ lại, “Khi ấy ta còn bảo lạ. Nếu sơ sẩy rơi xuống nước, vì sao trên người Tử Thịnh chỉ có áo lót? Thái tử lại nói có thể Thái tử ham chơi nên tự xuống nước. Nhưng ta biết Tử Thịnh trưởng thành sớm, sẽ không mạo hiểm không cần thiết, nó lại không biết bơi, nếu muốn xuống nước ắt sẽ sai người đứng canh, hoặc trên người thắt dây thừng… Hầy, Thái tử là vậy đấy, kém xa lão Tam trong khoản thấu rõ lòng người và quyết đoán.”
Thiếu Thương thấp giọng: “Nương nương đừng nói Thái tử như vậy. Thái tử nhân hậu hiền lành, chẳng qua…”
“Là quân vương, điều cần thiết không phải nhân hậu hiền lành mà là thưởng phạt phân minh.” Hoàng hậu quả quyết, “Đạo quân thần tức là gì. Là bề tôi lao vào nơi dầu sôi lửa bỏng vì quân vương, quên đi sóng chết; còn quân vương phải tin tưởng, bao che ban thưởng.”
“Hai ngày qua, lão Tam không ngại đương đầu chạy ngược chạy xuôi, đến Đình Úy, thẩm vấn binh lính, xông vào vương phủ, bức ép thúc tổ, lại còn biện hộ cho Tử Thịnh ở ngự tiền, gây nên bao lời ngấm ngầm chỉ trỏ, nói lão Tam và Tử Thịnh đã cấu kết với nhau từ lâu… Nhưng ta biết, trong mắt người có lòng, quân vương như thế mới là bậc quân vương tốt. Nếu là ta, ta cũng sẵn sàng trả mạng vì quân vương như lão Tam.”
“Như Kiền An vương phủ năm xưa chẳng hạn, đội ngũ lẫn danh vọng của cữu phụ hơn hẳn bệ hạ, nhưng trong mắt rất nhiều bề tôi, bệ hạ mới là minh quân đáng để quy thuận. Bằng không, khi cữu phụ mưu đồ gây rối đã không có một nửa mưu sĩ tướng lĩnh không muốn đi theo.”
Thiếu Thương biết điều Hoàng hậu nói thật, nhưng càng như vậy trong lòng càng khó chịu.
Cái lạnh đầu xuân vẫn chưa vơi, mặt trời sớm tắt lửa, chỉ mới vài câu nói mà bên ngoài đã tối đen. Bỗng đúng lúc này Sầm An Tri đến chuyển lời, báo rằng Hoàng hậu đã có thể đến.
Nhìn vẻ mặt hồ nghi của Thiếu Thương, Hoàng hậu nói: “Ta có nói với bệ hạ, bao giờ Tử Thịnh tỉnh thì gọi ta tới. Ngươi có đi cùng không.”
Thiếu Thương không muốn đi, ngập ngừng nói: “Lăng đại nhân…”
“Giờ nó đã họ Hoắc. Bệ hạ tính bảo nó đổi lại tên cũ là Vô Thương, nhưng Tử Thịnh nhất quyết gọi là Bất Nghi – lấy đó an ủi Hoắc phu nhân đã qua đời, cả đứa trẻ đáng thương đã dâng mạng thay nó nữa.” Hoàng hậu nói.
Thiếu Thương rầu rĩ – A Ly cướp tên của A Tranh, vì vậy A Tranh mới thoát chết, dùng tên của A Ly tiếp tục sống trên đời này. Nàng hoàn hồn, nói nhỏ: “Thái tử điện hạ không đến ạ?”
Hoàng hậu nói: “Ta đã cấm nó mấy ngày nay không được bước chân ra khỏi Đông cung, cũng đừng nhúng tay vào… Hầy, chỉ cần Thái tử không nhúng tay.”
Thiếu Thương cùng Hoàng hậu ngồi trên kiệu phượng, ánh đèn trập trùng giữa cung hẻm tối mù, có cảm giác như đang đi trong mơ, khung cảnh kỳ quặc y như đang tưởng tượng. Cung điện tối nay có vẻ nghiêm túc tĩnh lặng hơn mọi khi, cung nữ hoạn quan im lặng qua lại, không một biểu hiện, cũng không một âm thanh.
Trong tẩm cung của Hoàng đế nồng mùi thuốc, ngoài điện là nhóm ngự y đang đứng chờ gọi.
Hoàng hậu không bước vào từ cửa chính mà được một tiểu hoàng môn dẫn đi vòng từ thiên điện, đi chừng nửa khắc đồng hồ, bọn họ tới một căn phòng tinh tế tĩnh mật, dưới đất trải thảm nhung dày, dù hạ chân cũng không vang tiếng động.
Giữa phòng giăng một bức rèm to rũ chạm đất, làm từ gấm dày nặng, bên trên thêu hoa văn dã thú dày đặc và phức tạp, ngăn cách bên trong với bên ngoài.
Hoàng hậu ngồi trên đôn ghế cạnh tấm rèm gấm, vẫy tay với Thiếu Thương. Thiếu Thương bèn đi đến ngồi xuống, theo hướng Hoàng hậu chỉ tay, giữa rèm gấm dày có một đường hở có thể để bọn họ nhìn thấy tình hình ngoài phòng.
Thiếu Thương tới gần kẽ hở nheo mắt nhìn, có hai người đang quỳ bên ngoài, một là Tam hoàng tử, một là… Đầu nàng ong lên, suýt đã không thể ngồi vững. Lúc nãy Hoàng hậu nói nàng gầy sọp đi, nàng không có soi gương, không biết gầy sọp đi là như thế nào, nhưng giờ nàng đã hiểu rồi.
Tam hoàng tử đang nói chuyện, Hoắc Bất Nghi né người lắng nghe.
Chàng mặc trung y lụa trắng, khoác một chiếc áo choàng nhung đen dày trên vai, vạt áo để hở lộ ra lồng ngực như ngọc, dải băng quấn quanh thấm máu, mái tóc dài đen bóng như lông quạ được vấn nhẹ bằng trâm bạch ngọc mộc mạc không hoa văn, khuôn mặt gầy gò xanh xao làm viền tóc mai hằn vẻ màu lam u ám.
“… Kỷ Tuân tìm mười mấy tiến sĩ so sánh bút tích, Lăng Ích không phải xuất thân là kẻ có học, sẽ không biết dùng nhiều kiểu chữ nên so sánh rất dễ – đó chính là nét chữ của Lăng Ích!” Tam hoàng tử vô cùng xem thường, “Bây giờ đám mắt mù kia còn nói gì được nữa. Hừ, ngay trước vỗ ngực đảm bảo cho Lương Ích chính là họ, giờ rụt cổ không thấy bóng dáng cũng vẫn là họ!”
“Điện hạ tranh cãi ít thôi.” Hoắc Bất Nghi thấp giọng nói, giọng trầm khàn.
“Đêm qua phụ hoàng đã chứng thật thân phận của Tử Thịnh, vậy mà đám vô liêm sỉ kia vẫn còn mồm mép, nghị luận gì mà ‘tòa thành lớn như vậy, Lăng Ích có bao nhiêu nhân lực để mà phá thành diệt tộc’. Nói nhảm, có câu đê dài ngàn dặm hủy trong phút chốc, với mưu kế vô tình thì thiếu gì cách!” Tam hoàng tử cười lạnh.
Chỉ trong một đêm, Hoàng đế như già đi mấy tuổi, nét mặt tang thương: “A Tranh, trước lúc lâm chung phụ thân khanh có nói gì không?… Lần này suýt đã toi mạng. Khanh, khanh nói từ từ thôi.”
Con tim Hoắc Bất Nghi đã đau đớn đến mức chết lặng, trước mắt hiện lên cảnh phụ thân cao lớn như núi ngã sụp xuống, chỉ chớp mắt ngắn ngủi, thời thơ ấu trong vòng tay phụ từ mẫu ái của chàng đã kết thúc.
“Lúc ấy chúng thần đã bị bủa vây rất lâu, trong thành thiếu rất nhiều thứ, không thể no bụng cũng không thể chống rét. May rằng kề lưng vào núi Tuần Dương nên vẫn đảm bảo được nguồn nước trong thành. Xế trưa hôm ấy, A Ly cầm hai quả hạnh đến khoe, nói muốn đổi xiêm y của thần ra ngoài chơi, vì cô mẫu quản thúc đệ ấy quá chặt. Do đã lâu thần chưa được ăn trái cây… nên đã đồng ý.” Giọng của Hoắc Bất Nghi ngày một thấp.
Ngực Hoàng đế đau đớn.
Hoắc thị huyện Phong vốn là vọng tộc giàu có bậc nhất, dù ngoài kia trải qua thiên tai nhân họa thế nào thì Hoắc gia cũng chưa bao giờ thiếu hụt, vậy mà ấu tử của Hoắc Xung lại có thể thèm một quả hạnh, đủ biết tình hình vây thành khi ấy khó khăn đến nỗi nào!
Trông thoáng chốc, Hoàng đế nhớ lại câu hỏi của Hoắc Xung trước khi ra đi.
“Bệ hạ đi trước chặn đánh Thương Hổ quân, cần thần ở sau ngăn cản giặc Man bao lâu?”
“Đi đường mất một tháng, quay về cũng một tháng, bài binh bố trận lại thêm nửa tháng, tính toán sẽ chừng ba tháng!”
“Đa số Thương Hổ quân là hảo hán lục lâm bị ép tạo phản, ngay tới vị thủ lĩnh cũng không thể hàng phục, thần cho rằng bệ hạ không nên công kích mạnh, mà cần vừa đánh vừa hóa giải, âm thầm lôi kéo sẽ tốt hơn. Nếu có thể thu phục ba trăm ngàn quân Thương Hổ kiêu dũng thiện chiến, cơ nghiệp đóng đô thiên hạ của bệ hạ ắt sẽ thành!”
“… Nhưng như vậy ít cũng mất nửa năm.”
“Vậy thần sẽ trấn thủ nửa năm!”
Hoàng đế ôm ngực nhức nhối, mắt hổ ngấn lệ, hận thời gian không thể quay về quá khứ, thà bình định thiên hạ trễ hai mươi năm cũng không muốn mất đi nghĩa huynh.
Hoắc Bất Nghi lại nói: “Thần và A Ly rất giống nhau, đệ ấy mặc xiêm y của thần ngông nghênh đến võ trường chơi. Thần ăn một quả hạnh, nhớ lại mẫu thân nói phụ thân cũng thích quả hạnh, nên không ăn nốt quả thứ hai. Thần lén vào thư phòng của phụ thân đặt quả hạnh lên bàn ông ấy, nào ngờ vừa đặt thì nghe thấy bên ngoài có người đến. Thần hốt hoảng, bèn nấp vào ám các sau kệ sách.”
“Người vào chính là phụ thân và Lăng Ích. Nghe bọn họ nói chuyện, thần mới biết hôm trước phụ thân đã bị thương khi lên đầu thành. Phụ thân nói chỉ là vết thương nhẹ, nhưng thực chất không phải, ông không nói vì sợ lòng quân dao động, cũng tránh để mẫu thân lo lắng. Phụ thân không tiết lộ với người nào, chỉ sai chú Lý lén trị thương cho mình, nào ngờ lại bị Lăng Ích nhận ra. Lăng Ích tinh thông y thuật, bèn bảo sẽ trị thương cho phụ thân.”
“Phụ thân rất mất kiên nhẫn với Lăng Ích, bảo ông ta mau dẫn người lên đầu thành đi, đừng có nấp ở phía sau nữa, Lăng Ích luôn miệng dạ vâng. Thần thấy hắn đứng sau lưng phụ thân, từng châm từng châm vá vết thương cho phụ thân…” Mặt chàng đau đớn, “Thế rồi tay áo Lăng Ích lóe lên, một con dao găm trượt ra. Hắn cắt đứt cổ họng phụ thân chỉ trong một đao, phụ thân không thể la lên, chỉ biết ôm cổ nhìn Lăng Ích, sau đó ngã xuống vũng máu.”
Hoàng đế đau đớn kêu lên, ôm mặt khóc nức.
“Hành sự xong Lăng Ích vẫn chưa đi, mà lục lọi một lúc trong thư phòng phụ thân, sau đó cắt đầu của phụ thân dấu trong ngực chạy trốn, trước khi đi còn châm đuốc đốt thư phòng. Thần nấp trong ám các, cứ tưởng sẽ bị thiêu chết. May sao mấy hôm ấy trời ẩm ướt, Lăng Ích không mang theo dầu lửa nên thư phòng chỉ cháy một nửa.”
“Ám các được xây bằng gạch xanh, ngoài ra còn có lỗ thông hơi mở rộng phía sau, nhưng thần vẫn bị khói lửa làm ngất xỉu, đến lúc tỉnh lại thì bên ngoài đã tối mù, đánh nhau liên tục, thây đổ khắp nơi.” Hoắc Bất Nghi nhớ lại cơn ác mộng đêm ấy.
Thi thể máu tươi chảy đầy đất, tỳ nữ quần áo xộc xệch và gia đinh bị cụt tay cụt chân, tỳ nữ xinh đẹp đã thêu hình lên xiêm y chàng, vì sao bị chém mà toàn thân vẫn lõa lồ, vì sao tiểu thị vệ suốt ngày muốn tòng quân lại mất một nửa cái đầu, ruột gan phọt cả ra ngoài… Mẫu thân ta đâu, ba a tỷ đâu, đúng rồi, còn cả hai huynh trưởng, bọn họ là thiếu niên anh hùng, tuyệt đối sẽ không bó tay chịu trói.
Không biết chạy đã bao lâu, A Tranh bé nhỏ nghe thấy tiếng chém giết ở đầu kia vọng đến, chàng ngoái đầu, nhìn thấy Hoắc Quân Hoa đang đi tìm con trai dưới sự bảo vệ của các thị vệ, bà kêu lên ‘A Ly, A Ly của mẹ, con đang ở đâu…”
Lúc này, Hoắc Quân Hoa nhìn thấy cháu trai đang mặc xiêm y của A Ly, chàng cũng nhìn thấy cô mẫu xấu tính, hai cô cháu ngẩn ngơ nhìn nhau. Một gã thị vệ vừa chống cự kẻ địch xông đến vừa hô to: “Phu nhân, tìm thấy tiểu công tử rồi!”
Hoắc Bất Nghi bé nhỏ đang định hô lên ‘dượng giết phụ thân’ thì Hoắc Quân Hoa đã hét lớn, nhào đến ôm chặt mình, sau đó vừa khóc vừa cười ‘A Ly, cuối cùng mẫu thân cũng tìm thấy con rồi, chúng ta đi nhanh lên, thành đã bị công phá’!
Lúc ấy chàng điếng người, dù cả thế giới có nhận nhầm chàng và A Ly thì cô mẫu tuyệt đối sẽ không nhận nhầm! Chàng không hiểu vì sao, nhưng chàng biết lúc này mình không thể để lộ, nên cứ để Hoắc Quân Hoa ôm mình đi.
“Cẩu tặc Lăng Ích không biết đánh giặc, nhưng âm mưu quỷ kế quá nhiều.” Tam hoàng tử cười lạnh, “Thật sự nên gọi đám mắt mù kia đến xem thư tín lụa trắng của Lăng Ích, lĩnh giáo xem thứ gì gọi là ‘âm mưu không kẽ hở’!”
Muốn tính kế một tòa thành phòng thủ vững chãi thì cần bao nhiêu nhân lực, cần quyền năng lớn tới đâu? Thực ra rất nhiều người đã nghĩ sai, chỉ cần không ai đề phòng ngươi, rót độc vào chỗ mấu chốt là đủ.
Qua lời tự thuật của Hoắc Bất Nghi và Tam hoàng tử, Thiếu Thương dần dà hiểu ra chân tướng năm đó.
Hoắc Xung vốn chỉ dẫn theo quân đội, nhưng tòa thành trì đó vừa đoạt được từ tay kẻ địch, lòng dân bất ổn, cho nên ông đành dẫn cả nhà già trẻ vào thành, chứng minh quyết tâm sống chết cùng nhau. Trải qua hai tháng xử lý, truy tìm gián điệp, kiểm tra dân số lương thực, biếm xích gian thường, người dân trong thành đã kính phục nhân phẩm và bản lĩnh của Hoắc Xung.
Thời hạn nửa năm theo thỏa thuận đã kết thúc, vậy mà vẫn không hay tin từ viện binh. Trong thành binh mệt ngựa mỏi, thương binh đau ốm, hai vạn giáo quân ở ngoài thành cũng đã mất hơn nửa, hai phe giết đỏ cả mắt, ai cũng biết ngày phá thành chính là lúc đồ thành, vậy nên Lăng Ích mới dao động.
Cô thành đó có cửa thành khắp ngõ, được tứ đại gia tướng của Hoắc Xung trấn thủ, trùng hợp thế nào Lý phó tướng trong số đó bị thương chưa khỏi, Hoắc Xung có vẻ muốn Lăng Ích vào thay. Sau khi ám sát Hoắc Xung, Lăng Ích cầm lệnh phù của Hoắc Xung đến tiếp quản cửa thành, các tướng quân thủ thành không hồ nghi nhường lại.
Lúc ấy gia đinh của Hoắc gia vừa dập lửa ở thư phòng, phát hiện ra một thi thể không đầu. Quần áo cơ thể thi thể bị thiêu cháy khó nhận diện, binh lính trong phủ chắc chắn không ngờ chúa công thần dũng cái thế nhà mình lại bị ám sát, thế là mời Hoắc Xung phu nhân đến làm chủ.
Khi sự chú ý của mọi người ở Hoắc trạch dồn lên thư phòng, Lăng Ích đã mở cửa để giặc xông vào, đồng thời phóng hỏa rất nhiều nơi trong thành, hò hét rằng ‘Hoắc Xung bỏ thành lẻn trốn’! Giặc Man vốn đông gấp mấy lần quân đội trong thành, vừa vào thành thì tức khắc như sói vào bầy dê.
Tới khi tướng lĩnh trấn thủ lấy lại bình tĩnh, bày trận ứng chiến trong thành thì Lăng Ích lại để giặc Man cắm đầu lâu của Hoắc Xung treo lên cao, ngay lập tức bầy rồng mất đầu, lòng quân tan vỡ. Giặc Man tức tốc tiến quân, đồ sát gia tộc Hoắc thị!
Hoắc Bất Nghi kể lại: “Cô mẫu dẫn thần trốn vào núi Tuần Dương, khi chạy trong thành, thần nhìn thấy đầu lâu của phụ thân bị cắm trên tường thành, bên cạnh là A Ly đang mặc xiêm y của thần. Cô mẫu thấy thế thì khóc rất to, sau đó nói với những người khác là thần bị kinh hãi, vốn dĩ ốm yếu nên đã đổ bệnh, không thể gặp ai. Khi Lăng Ích và Ngô đại tướng quân ở ngoài giết địch, bà đã đưa thần đi trốn.”
Suy cho cùng cũng là vợ chồng, đương nhiên Hoắc Quân Hoa cũng phát hiện ra vài điểm. Đúng là bà định đi tìm con, nhưng vừa đi ra đã thấy thi hài la liệt Hoắc phủ, cuối cùng bà cũng đã hiểu mọi chuyện. Dưới sự ‘bảo vệ’ của thị vệ Lăng phủ, bà đành phải nhận A Tranh.
Nhưng những chuyện này Lăng Ích không biết, hắn nấp trong bóng tối, mắt nhìn Hoắc gia bị tiêu diệt sạch sẽ mới thở phào.
Nhưng hắn không ngờ khoảng nửa ngày sau Ngô đại tướng quân đã đến. Lúc ấy giặc Man đang chìm đắm trong cơn phê đồ thành cướp bóc, nên Lăng Ích nhận được tin sớm hơn giặc Man.
Lăng Ích rất biết nhìn thời cơ, chẳng những lập tức quay về núi Tuần Dương mà còn giả vờ đau đớn với Ngô đại tướng quân vừa đuổi đến, đồng thời bày tỏ quyết tâm sống mái với tặc khấu. Thế là hắn giúp Ngô đại tướng quân đóng ba cửa thành, chặn lại đa số giặc Man đang ở trong thành…
Kể tới đây, Tam hoàng tử nhếch mép, “Ngô Thành mà, phụ hoàng biết đấy, một khi nổi máu tàn sát thì không ai có thể ngăn cản. Bình thường chém giết vô số còn sợ kẻ khác nói ông ta đồ thành bất nghĩa, nhưng bấy giờ là trả thù rửa hận, có thể vung đao. Nói tóm lại, đám giặc Man vào thành dù buông vũ khí đầu hàng cũng bị giết sạch. Ngày hôm sau, Ngô đại tướng quân thừa thắng truy kích giặc Man ngoài thành, đại hoạch toàn thắng.”
Liên thủ với Lăng Ích là bí mật, không nhiều thủ lĩnh quân địch biết được chuyện này, nên khi chuyện xảy ra vội vã cũng không có sắp xếp khác. Âu cũng là cái may của Lăng Ích, Ngô đại tướng quân gặp người thì giết, giết xong con châm lửa đốt quân nhu doanh trướng của giặc Man, như thế không ai có thể xác nhận được tội ác của ông ta.
Lúc ấy Lăng Ích mới biết vợ con thất lạc trong loạn quân, ông ta rất sợ. Để không bị Hoàng đế giận cá chém thớt, anh em Lăng thị đã mưu tính suốt đêm – tuyệt đối không thể Hoắc gia chết sạch mà Lăng gia còn bình an.
Thế là nhân lúc Ngô đại tướng quân đang xông pha phía trước, bọn chúng đẩy một bộ phận ‘người nhà’ vào loạn binh, bao gồm một nhà thúc phụ sống dựa vào Lăng gia, hai nhà vợ của Lăng lão nhị và cả gia đình huynh đệ kết nghĩa của Lăng lão tam…
Nói tóm lại, ngoại trừ ba anh em Lăng gia và trẻ nhỏ ở lại núi Tuần Dương, cùng với vợ của Lăng lao tam may mắn ở quê chờ sinh, Lăng gia cũng được coi như ‘cả nhà trung liệt’.
“Vì sao lúc ấy các ngươi không đến tìm trẫm!” Hoàng đế đập mạnh xuống bàn.
Hoắc Bất Nghi cười thảm: “Bệ hạ, nếu lúc ấy thần không phải chỉ mới năm sáu tuổi, chắc chắn sẽ cáo ngự trạng.” Nếu lúc ấy Tiểu A Tranh có được mưu trí và sự gan dạ sáng suốt của Hoắc Bất Nghi bây giờ, đương nhiên sẽ tố cáo thẳng.
Nhưng chàng đâu được như thế.
Lúc ấy chàng chỉ mới năm sáu tuổi, kinh hãi không biết cậy nhờ ai, Hoắc Quân Hoa là chỗ dựa duy nhất của chàng.
Hoắc Quân Hoa cho rằng Hoàng đế và Ngô đại tướng quân sẽ không tin tưởng lời mình, hơn nữa nếu Lăng Ích luôn mồm nhận định A Tranh là con trai ông ta, chắc chắn Hoàng đế sẽ không đếm xỉa đến bà. Một khi Lăng Ích cướp con trai về, không phải A Tranh sẽ rơi vào tay giặc ư? Nếu Lăng Ích muốn ám toán A Tranh, chắc chắn rất khó để đề phòng.
Nhưng khi Hoắc Bất Nghi vào cung thì mới dần dần hiểu ra, chàng và Hoắc Quân Hoa đã mất đi cơ hội minh oan tốt nhất.
Bề ngoài của chàng đã thay đổi, không ai có thể chứng minh chàng là A Tranh hay A Ly, những ‘tâm phúc’ biết được hành vi Lăng Ích cấu kết với địch cũng dần dần ‘biến mất’ trong hai ba năm ấy.
Chàng đành ngậm đắng nhẫn nhịn, âm thầm tìm chứng cứ Lăng Ích bỏ sót.
Trong thời gian mười sáu năm, Hoắc Bất Nghi như đang tranh đấu cùng Lăng Ích. Hoắc Bất Nghi cố gắng trưởng thành, năm này qua năm khác nuôi dưỡng thế lực của mình lớn mạnh, hòng âm thầm điều tra; còn Lăng Ích đã thu lại nanh vuốt, năm này qua năm khác bù lấp chỗ khuyết, che giấu san bằng những sai lầm năm xưa.
Nhưng kỳ thực, đến cuối cùng người thua lại là Hoắc Bất Nghi.