[Song Trọng Sinh] Trọng Tự
Chương 47
__________
Tạ Trùng Tự vừa tỉnh nên các giác quan vẫn còn trì trệ, mắt tai miệng mũi như thể không phải là của mình nữa, ngay cả khi nước ấm chảy qua yết hầu cũng chỉ có một chút cảm giác, nhẹ tựa lông hồng quét qua.
Đối phương đã nói gì đó nhưng nàng nghe chẳng rõ, chỉ có thể nhắc lại: “Sư tỷ, ta không nghe thấy gì, tỷ cứ đưa nước cho ta cái đã.”
Cốc nước cuối cùng cũng nằm trong tay nàng.
Lòng bàn tay cảm nhận được hơi ấm, quả nhiên tứ chi lập tức hồi phục.
Tạ Trùng Tự nhấp môi uống thêm mấy ngụm nước cho thông họng, hỏi: “Ta đã ngủ mấy ngày rồi?”
“Một ngày.” Cốc nước uống xong bị lấy đi, người đó dùng ngón tay viết vào lòng bàn tay nàng hai chữ này.
Tạ Trùng Tự “a” lên một tiếng, mày chau mặt ủ: “Sao không ngủ liền một lúc bốn năm ngày, đợi hồi phục hẳn mới tỉnh lại cơ chứ?”
Mắt không nhìn được tai không nghe rõ, thật sự rất bất tiện.
Tuyên Giác đứng ở một bên lặng lẽ nhìn nàng, không nhắc lại câu “Giang sư tỷ đi ra ngoài rồi” mà ban nãy mình đã nói nữa.
Giang Châu Tư phải đi hái vài vị thuốc để đề phòng Tạ Trùng Tự xảy ra bất trắc. Hơn nữa con vẹt màu hồng đó của nàng ấy cũng đã bị cảm, liên tục hắt hơi, giúp nàng ấy nói vài câu mà như sắp tắt thở, nó cũng cần phải uống thuốc.
Mấy ngày nay Tạ Trùng Tự đều ở trong sơn trang Trường Dương, nơi này có những căn phòng nghỉ yên tĩnh xây dựa vào núi, thi thoảng lại có tiếng chim hót líu lo, vừa thanh tịnh vừa yên bình.
“Trời sáng rồi sao? Muội muốn ra ngoài phơi nắng.” Tạ Trùng Tự bỗng mở miệng, “ở trong phòng bí bách quá”.
Trên người nàng đang mặc chiếc váy trắng đơn giản do sơn trang chuẩn bị, mái tóc dài chưa được vấn lên mà đang xõa tung trước ngực, trông rất mỏng manh yếu đuối. Cánh môi trước nay vẫn luôn hồng hào tươi tắn thì nay có chút nhợt nhạt, thần sắc ốm yếu.
Ánh nắng chiều ấm áp chiếu lên hành lang dài và góc mái hiên, mảnh sân tắm mình trong cơn gió êm dịu sau cơn mưa bụi. Tuyên Giác rời mắt khỏi Tạ Trùng Tự, đi đến trước cửa gỗ xem xem nhiệt độ ngoài trời ấm hay lạnh, sau đó chàng trở lại, viết lên tay Tạ Trùng Tự: “Được.”
Các quý nhân khi tới đây thường sẽ tự mang theo nô bộc, thế nên người làm ở sơn trang Trường Dương không nhiều, nhưng ai cũng đều nhanh tay lẹ mắt.
Thị nữ đứng bên cạnh định tiến lên giúp Tạ Trùng Tự mặc áo và buộc tóc nhưng bị Tuyên Giác cản lại: “Ngươi đi lấy cháo tới đây, nhớ mang theo chút đường”.
Sau khi thị nữ hối hả rời khỏi, Tuyên Giác lấy chiếc áo khoác và khăn lông treo trên giá xuống khoác lên người Tạ Trùng Tự, rồi chàng dùng dây lụa buộc mái tóc nàng lại, ôm vào hai bên má.
Tạ Trùng Tự ngoan ngoãn mở rộng hai tay để chàng giúp mình sửa soạn, đôi mắt nàng tạm thời mất đi tiêu cự, như bị một lớp sưng mù che phủ.
Tuyên Giác không nhịn được, sau khi buộc tóc cho nàng xong, chàng cúi người đặt một nụ hôn nhẹ lên mái tóc nàng.
Tạ Trùng Tự chớp mắt, cười nói: “Sao vậy, bên ngoài lạnh lắm ư?”
“Không lạnh, ánh nắng rất đẹp, gió cũng nhỏ.” Tuyên giác nhẹ giọng nói, “nhưng ta sợ nàng lạnh thôi.”
Nói vậy nhưng chàng lại viết lên tay Tạ Trùng Tự chữ “ừ”. Chàng dắt nàng đi dưới mái hiên, đi tới nơi có ánh nắng soi chiếu, người hầu đã chuẩn bị sẵn vài chiếc ghế có bọc đệm để hai người ngồi.
Người hầu cảm thấy hai người trước mặt này có dung mạo quá đẹp, khi ngồi sát cạnh bên nhau trông càng hút mắt, không biết vị tiểu thư này mắc bệnh gì mà mắt mù tai điếc, hai người bọn họ có quan hệ gì.
Phu thê ư?
Hay là vị hôn thê, vị hôn phu?
Nhưng nghe nói hai vị công tử của Tuyên gia đều chưa có hôn phối.
Hắn mải mê nghĩ ngợi, nửa quỳ trước bậc thềm hành lang giúp người thị nữ dọn đồ ăn lên bàn, không nhịn được mà ngẩng đầu lên quan sát hai người, lúc liếc qua Tuyên Giác, hắn bất chợt bị sự chiếm hữu trong đôi mắt chàng làm cho ngây ngẩn.
Chỉ một giây không để ý, chiếc đũa bạc trong tay tên người hầu rơi xuống dưới đất, hắn hoảng hốt nhặt lên rồi đi đổi một đôi mới, khi trở lại, Tuyên Giác đang khoan thai bỏ đường vào cháo, chàng không trách móc hắn mà chỉ khẽ hất cằm, ra hiệu cho hắn để đũa trên bàn là được.
Dường như ánh mắt điên cuồng, cố chấp khi nhìn Tạ Trùng Tự ban nãy chỉ là ảo giác.
Tên hầu sợ hãi lui xuống, còn không quên kéo theo người thị nữ định tiến lên hầu hạ lui xuống theo.
Trong đình lúc này chỉ còn lại hai người, chuông gió trên hành lang bị gió thổi phát ra những tiếng đinh đang lanh lảnh, giống như như ở phủ công chúa năm đó.
Dưới mái hiên trong phủ công chúa cũng được treo loại chuông gió để cầu phúc, cầu bình an giống như này.
Năm đó, khi hai thiếu niên tới từ Giang Nam tươi cười bước vào phủ công chúa, chiếc chuông đồng cũng ngân vang trong gió như vậy.
Nhĩ Ngọc tới hoàng lăng ở ngoại ô tế tổ, mất mấy ngày mới trở về.
Không biết là tên quản gia nào không hiểu chuyện, hay là đã nhận ân huệ từ ai đó nên đã nghênh đón hai người đó vào phủ.
Tuyên Giác không vui nhưng chàng chẳng để tâm, cũng chẳng bàn luận, chỉ bàng quan mặc kệ.
Khoảng thời gian đó Tạ Trùng Tự say mê cầu đồng tâm, nàng đã thu thập ngà voi về để khắc nhưng vẫn không vừa ý. Tuyên Giác đích thân ra tay thử khắc xem sao, cầu đồng tâm hay còn gọi là cầu quỷ công, bên trong có rất nhiều lớp xếp chồng lên nhau, chế tác tinh xảo, đòi hỏi tay nghề vô cùng cao.
Đang mải mò mẫm thì có kẻ tới làm phiền, dù có là thánh nhân thì cũng sẽ bực bội, chàng lạnh lùng ngước mắt lên nhìn hai kẻ đó.
Hai thiếu niên lang một áo đỏ một áo xanh, mặt mũi đều rất đẹp, thậm chí người áo xanh còn có phong thái vài cử chỉ giống chàng tới sáu phần.
Có thể thấy kẻ dâng chúng lên đã bỏ biết bao tâm tư.
Tuyên Giác lạnh nhạt cất tiếng: “Không hoan nghênh, tiễn khách”.
Hạ nhân trong viện nghe thấy lời này thì khách khí mời hai người đó ra về, thiếu niên áo đỏ nghiêng đầu nở nụ cười: “Ôi chào, sau này chúng ta sẽ cùng hầu một chủ, vị huynh đệ này xấu hổ gì chứ? Ta…”
Thanh niên áo xanh đứng bên cạnh giữ hắn lại, vẻ mặt người này biết giữ kẽ hơn rất nhiều: “Ngày khác chúng ta tới chào hỏi sau”.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba, hai người này vẫn cứ đi tới trước mặt Tuyên Giác. Tuyên Giác cảm thấy kỳ lạ nhưng lại chẳng nói gì, chỉ căn dặn hạ nhân không được để hai người họ tới gần chàng.
Tới ngày thứ tư, thiếu niên áo đỏ cố tình tới kiếm chuyện, làm vỡ nát quả cầu đang khắc dở của chàng.
Tuyên Giác cụp mắt không nói gì, thiếu niên áo đỏ lại “ôi chao” lên một tiếng rồi nói: “Không cẩn thận. Ngày khác sẽ đền cho ngươi một cái nhé”.
Thanh niên áo xanh vội vàng đi tới, kéo tên áo đỏ lại rồi định nói lời xin lỗi. Lúc này, Tuyên Giác bỗng nhiên mở miệng: “Lui xuống hết đi”.
Lời này là nói với hạ nhân.
Sắc mặt đám hạ nhân mỗi người một vẻ, có người không nhịn được, cau mày định giúp Tuyên Giác đuổi người.
“Lui hết đi, ta có vài lời muốn nói với hai người bọn họ.” Tuyên Giác nhắc lại.
Đám hạ nhân lúc này mới lũ lượt lui ra khỏi cửa viện.
Đến khi trong sân không còn ai, thiếu niên áo đỏ vươn vai ưỡn người, ngồi phịch xuống bên cạnh Tuyên Giác, rồi tự nhiên như không tự rót một chén trà cho mình.
Tuyên Giác khẽ cười một tiếng: “Ngày khác đền cho ta một cái? Ngươi biết khắc sao?”
“Đâu có biết.”
“Thế ngươi định mua đền cho ta?”
“Ta không có tiền, vừa mới chuộc thân xong”.
Tuyên Giác lại hỏi: “Vậy ngươi định lấy gì đền cho ta? Dùng hai chân của ngươi ư? Hay là đầu?”
Nụ cười của thiếu niên áo đỏ lập tức cứng lại, khoảnh khắc đó, hắn cảm thấy Tuyên Giác không hề nói đùa. Chàng thực sự muốn chặt chân hoặc lấy mạng hắn.
Hắn đột nhiên hiểu ra, tại sao đám người ở Giang Nam lại nhất định phải lôi kéo bằng được tên con trai của tội thần này.
Lúc hắn còn đang sững sờ, Tuyên Giác bỗng chuyển chủ đề: “Tìm ta có việc gì?”
Trên dưới khắp người tên thiếu niên áo đỏ đều cố gắng thể hiện sự hỗn xược do được nuông chiều mà ra, nhưng…
Muốn như vậy thì phải được nuông chiều cái đã, ngay cả mặt của Nhĩ Ngọc hắn còn chưa thấy thì lấy đâu ra sự tự tin tới như vậy?
Những tên được dạy dỗ từ nhỏ như bọn chúng vốn rất giỏi nhìn mặt đoán ý, hành xử cẩn trọng, Tuyên Giác không cho rằng bọn chúng ngu ngốc tới mức tự tìm đường chết.
Thiếu niên áo xanh tỏ ra điềm tĩnh hơn, thấy chàng hỏi, hắn ngồi thẳng lưng xuống trước mặt chàng, nói: “Giang công nhờ ta gửi lời chào tới ngài.”
Tuyên Giác lập tức hiểu ra… là Ứng Thiên Giang gia.
“Trong yến tiệc diễn ra vào một tháng trước, bọn ta có gửi cho ngài một bức thư, ngài vẫn chưa hồi âm.” Hắn tiếp tục nói, “nội dung trong thư, chắc hẳn ngài vẫn chưa đọc, Giang công sai ta tới nói lại với ngài.”
Tuyên Giác dứt khoát nói: “Ở những nơi như yến tiệc cung đình, tốt hơn hết là không giở trò gì, đúng chứ?”
Thiếu niên áo xanh gật đầu: “Đúng vậy, nhưng tình thế quả thực cấp bách, bọn ta muốn ngài mau chóng biết chuyện. Tề gia rơi đài, liên lụy tới Tuyên gia, tội danh phản quốc, bức thư đó do đích thân ngài đưa, ngài chắc hẳn phải biết nó là giả đúng chứ? Ngài không muốn biết, kẻ đã động chân động tay là ai ư?”
Tuyên Giác khẽ ngước mắt, ánh mắt trong vắt như thủy tinh khi lạnh đi trông vô cùng xa lạ.
Thiếu niên áo xanh tưởng rằng chàng nghe thấy chuyện bất trắc của gia tộc nên thần sắc mới lạnh đi, hắn từ từ cất tiếng: “Thái tử Tạ Trị”.
Quá hấp tấp. Tuyên Giác nghĩ thầm.
Tộc trưởng của Giang gia là một ông lão râu tóc bạc phơ, tính cách vô cùng nhẫn nại. Vậy mà lại mạo hiểm tới tìm chàng những hai lần, chắc hẳn đã xảy ra biến cố nào đó.
Tuyên Giác làm như vô tình hỏi: “Thái tử ư? Hắn làm vậy là để trừ khử Hoàng gia và tam hoàng tử sao?”
“Đúng vậy. Tam điện hạ trước đây qua lại mật thiết với Tề gia, một mũi tên trúng nhiều đích”.
Tuyên Giác chuyển chủ đề: “Các ngươi tiến triển tới đâu rồi?”
Thiếu niên áo xanh tỏ ra bất lực: “Ngài thấy bọn ta là những kẻ có đủ tư cách biết rõ mọi chuyện ư?”
Tuyên Giác vừa thăm dò vừa từ tốn lên tiếng: “Giang Thành lão tiên sinh có bạn cũ ở binh bộ, sau được thăng chức chuyển tới quân đội Nam Dương, các tướng lĩnh dày dặn kinh nghiệm ở đó có Trương Kỳ, Điền Dương và Cố Mạnh, ai là người đã bị lôi kéo?”
Nếu chỉ là một đám cáo già không binh không mã thì đâu có dám tạo phản.
Càng không dám tỏ ra nóng vội thế này.
Thiếu niên áo xanh híp mắt.
“Trương Kỳ năm ngoái vừa gả con gái, nhà chồng là Bình Quận Vương, ắt hẳn không thể nào lấy đầu của nhiều người như vậy ra mạo hiểm được; Cố Mạnh xuất thân thấp hèn, trước nay chưa từng qua lại mật thiết với thị tộc, thậm chí hắn còn thường xuyên dâng tấu xin tăng thuế của người giàu để bổ sung cho quân đội; chỉ còn Điền Dương, cả chính thê lẫn tiểu thiếp đều là tỷ muội xuất thân thị tộc, thái tử từng cắt giảm ngân sách, bắt hắn phải trấn áp thổ phỉ ở Nam Dương hơn một năm.” Tuyên Giác chợt dừng lại, thấy bàn tay của thiếu niên áo đỏ khẽ run lên, suýt chút nữa thì làm rơi vỡ chiếc chén làm bằng sứ thanh hoa, chàng thuận tay đỡ lấy, tiếp tục nói: “Nếu như có quân đội của Điền Dương tham gia, Giang lão gia sốt ruột cũng là điều dễ hiểu.”
Sự kinh ngạc khẽ loé lên trong ánh mắt thiếu niên áo xanh bị Tuyên Giác bắt được.
Chàng thầm nghĩ: À, hóa ra là Điền Dương thật. Mười lăm vạn binh mã, đúng là không thể xem thường.
Nhưng… như vậy thì sao chứ?
Tuyên Giác không rõ là đang chế nhạo hay châm biếm, chàng từ từ cất tiếng: “Giang lão muốn để lại cho con cháu một mớ rắc rối hay sao?”
Lời này rõ ràng là đang giễu cợt Giang Thành, nói ông ta đầu óc lú lẫn, sống chẳng được bao lâu nữa.
Thiếu niên áo xanh im lặng hồi lâu, lúc này cũng nở nụ cười: “Công tử, ngài thực sự cho rằng chỉ có mình Giang gia nhúng tay vào vũng nước đục này hay sao? Giang gia lôi kéo được Điền Dương, quân đội hùng mạnh, tiền tài như nước, có thể vẫn chưa đủ. Vậy thì thêm Sở gia thì sao? Nếu vẫn chưa đủ thì còn có Mông gia và Tần gia. Nếu vẫn chưa đủ nữa thì còn có vô số các thị tộc lớn nhỏ ở Giang Nam, tất cả cùng hợp sức, lẽ nào không thể làm nên chuyện?”
“Cho dù không có ngài thì thế cục cũng sẽ không đổi. Triều đình ra sức trấn áp, tăng thuế quan, thị tộc oán hận đã lâu. Nếu tam điện hạ kế vị thì tốt, còn thái tử và bệ hạ có quan điểm chính trị giống nhau, thái tử kế vị sẽ chỉ tăng cường áp chế thị tộc.” Thiếu niên áo xanh lắc đầu. “Thái tử cũng không thể nào cản được. Hắn lên kế hoạch diệt trừ Tề gia, sở dĩ có thể thành công là do hành động quá nhanh, tất cả mọi người đều trở tay không kịp. Còn hiện tại cứ thử ra tay mà xem? Thị tộc đông đảo như vậy, hoàng quyền có thể thay đổi còn bọn họ sẽ tồn tại vĩnh viễn”.
Tuyên Giác đã lâu không nghe ngóng thế sự bên ngoài nên lúc này có chút sững sờ.
Trước đây khi chàng một mình du ngoạn khắp Đại Tề, thị tộc không ít lần có ý lôi kéo chàng nhưng chưa từng trắng trợn thế này. Do Tề gia bị tiêu diệt quá nhanh và thảm khốc nên mới khiến cho chúng bị dồn vào đường cùng, vùng lên phản kháng ư?
Chàng trầm giọng nói: “Không sợ ta tố giác các ngươi sao?”
Thiếu niên áo đỏ bên cạnh mở trừng mắt như thể nghe thấy một câu chuyện nực cười: “Không phải chứ? Ngươi đi giúp đỡ kẻ thù ư? Tố cáo bọn ta thì sao? Cùng lắm cũng chỉ khiến cho thời gian khởi binh nhanh hơn một hai năm thôi, ai là kẻ thắng cuộc chắc ngươi cũng dễ dàng đoán ra nhỉ? Hơn nữa…” Hắn hất cằm nói bằng giọng khinh khỉnh: “Ngươi nên nhìn rõ xem ta có thân phận thế nào, ta là đào kép thấp hèn được sinh ra bởi kỹ nữ, chỉ cần ta muốn là có thể kéo người theo. Muốn thử không?”
Thiếu niên áo xanh cũng lên tiếng: “Công tử cần phải hiểu rõ, cho dù ngài sợ phiền phức, không muốn nhúng tay vào vũng bùn này thì cũng không tới nỗi trở thành con dao của kẻ khác, hại người có chung kẻ thù với mình chứ?”
“Đúng vậy.” Tuyên Giác hiểu hắn đang cố tạo ra mâu thuẫn, nhưng chàng không thể không thừa nhận điều hắn nói là đúng, một lúc sau chàng mới khẽ nói, “ta sẽ không”.
Nhân nghĩa lễ hiếu, huyết mạch tình thân, đây là điểm mấu chốt. Cho dù có xảy ra chiến loạn thì chàng cũng chẳng thể nào giúp Tạ Trị trấn áp thị tộc được.
Tạ Trị không xứng.
Thiếu niên áo xanh thấy nét mặt Tuyên Giác trở nên khó lường thì để thời gian cho chàng suy nghĩ, chuẩn bị lên tiếng cáo từ.
Trước khi rời đi, hắn bỗng nhớ ra gì đó, làm như vô tình hỏi: “Phong thư trước đó, ngài thực sự không nhận được sao?”
Nếu như không phải những vật như thư tín hay tín vật bị thất lạc thì bọn chúng cũng chẳng mạo hiểm mà đưa người vào phủ công chúa truyền tin.
Tuyên Giác đi lướt qua người hắn, như thể nhìn thấy tro tàn trong lư hương ở góc đông nam của thư phòng sau cánh cửa gỗ, chàng khẽ cười, thần sắc vẫn như thường, nhẹ giọng nhắc nhở:
“Chưa từng. Có lẽ các ngươi đã xảy ra sai sót ở khâu nào đó rồi. Nhớ về điều tra kỹ đừng để lộ bất cứ sơ hở gì. Nếu như cần đưa tai mắt vào trong cung, ta có thể giúp đỡ đôi chút.”
Thiếu niên áo xanh đáp lại một tiếng, nhìn chàng bằng ánh mắt sâu thẳm rồi trầm ngâm rời đi.
Cơn gió mùa hạ càng lúc càng mạnh, chuông đồng cũng theo đó mà đung đưa.
Hơi thở của Tuyên Giác trở nên hỗn loạn, năm ngón tay bấu chặt vào giá trúc đến mức trắng bệch. Cuối cùng, sau tiếng kêu lanh lảnh, chiếc chuông đồng có khắc bốn chữ “bốn mùa bình an” và kinh phật cũng rơi xuống.
Tiếng chuông cũng theo đó biến mất, lúc này chỉ còn lại tiếng gió rít gào trong yên lặng, như thể đang chiếu cáo, ngọn lửa ở Giang Nam đã bùng lên và dần lan rộng.
Chàng không chịu nổi nữa, trái tim như bị bóp nghẹt, miệng phun ra một ngụm máu, sau đó lên cơn ho dữ dội.
Người hầu nghe thấy chàng ho mãi không ngừng thì lo lắng không thôi, vội vàng đỡ chàng dậy, mời ngự y.
Sau khi chàng khỏi bệnh, một chiếc chuông đồng có bốn chữ “bốn mùa bình an” khác lại được treo lên mái hiên. Chiếc chuông này không phát ra âm thanh nặng nề như cái trước mà trong trẻo hơn rất nhiều.
“Cháo ngọt ư.” Giọng nói của Tạ Trùng Tự lộ ra sự vui vẻ, kéo Tuyên Giác trở về với hiện thực, “bỏ đường vào sao?”
Tuyên Giác không chỉ bỏ đường, nói đúng ra thì chàng đã đổ cả bát đường vào mới đúng, chàng biết Tạ Trùng Tự không nghe thấy nhưng vẫn trả lời: “Ừ, nhưng ngọt lắm, chỉ được ăn một bát thôi.”
Tạ Trùng Tự quả nhiên không nghe thấy, nàng ăn từng thìa từng thìa tới khi hết sạch, đôi mắt hạnh cong lên thỏa mãn, nói: “Ngon lắm, còn không?”
Tuyên Giác viết vào lòng bàn tay nàng một chữ “không”.
Nàng như thể làm nũng, vân vê các ngón tay trên bàn tay trái của người trước mặt, miết đi miết lại các đường vân tay bên trên.
Sau đó bỏ ra.
Xúc cảm trên tay vẫn còn rất trì trệ, nàng không phân biệt được đây là tay người, hay là cánh tay bằng gỗ của sư tỷ.
Thế nhưng… có thể khiến nàng nếm ra vị ngọt, tức là bát cháo đó đã bỏ rất nhiều đường, Giang Châu Tư không phải kiểu người tỉ mỉ đến mức sẽ mặc áo khoác, thêm gia vị vào đồ ăn cho nàng.
Lúc này, nàng chẳng thể xác định được người trước mắt có thật sự là sư tỷ hay không.
Vậy nên Tạ Trùng Tự bỏ tay ra, làm ra vẻ không có gì thở dài một tiếng: “Vậy thì thôi, ta cũng no rồi. À mà sư tỷ, Tuyên Giác có trở lại Tuyên phủ hỏi ta đi đâu không?”
???
____________
Tạ Trùng Tự vừa tỉnh nên các giác quan vẫn còn trì trệ, mắt tai miệng mũi như thể không phải là của mình nữa, ngay cả khi nước ấm chảy qua yết hầu cũng chỉ có một chút cảm giác, nhẹ tựa lông hồng quét qua.
Đối phương đã nói gì đó nhưng nàng nghe chẳng rõ, chỉ có thể nhắc lại: “Sư tỷ, ta không nghe thấy gì, tỷ cứ đưa nước cho ta cái đã.”
Cốc nước cuối cùng cũng nằm trong tay nàng.
Lòng bàn tay cảm nhận được hơi ấm, quả nhiên tứ chi lập tức hồi phục.
Tạ Trùng Tự nhấp môi uống thêm mấy ngụm nước cho thông họng, hỏi: “Ta đã ngủ mấy ngày rồi?”
“Một ngày.” Cốc nước uống xong bị lấy đi, người đó dùng ngón tay viết vào lòng bàn tay nàng hai chữ này.
Tạ Trùng Tự “a” lên một tiếng, mày chau mặt ủ: “Sao không ngủ liền một lúc bốn năm ngày, đợi hồi phục hẳn mới tỉnh lại cơ chứ?”
Mắt không nhìn được tai không nghe rõ, thật sự rất bất tiện.
Tuyên Giác đứng ở một bên lặng lẽ nhìn nàng, không nhắc lại câu “Giang sư tỷ đi ra ngoài rồi” mà ban nãy mình đã nói nữa.
Giang Châu Tư phải đi hái vài vị thuốc để đề phòng Tạ Trùng Tự xảy ra bất trắc. Hơn nữa con vẹt màu hồng đó của nàng ấy cũng đã bị cảm, liên tục hắt hơi, giúp nàng ấy nói vài câu mà như sắp tắt thở, nó cũng cần phải uống thuốc.
Mấy ngày nay Tạ Trùng Tự đều ở trong sơn trang Trường Dương, nơi này có những căn phòng nghỉ yên tĩnh xây dựa vào núi, thi thoảng lại có tiếng chim hót líu lo, vừa thanh tịnh vừa yên bình.
“Trời sáng rồi sao? Muội muốn ra ngoài phơi nắng.” Tạ Trùng Tự bỗng mở miệng, “ở trong phòng bí bách quá”.
Trên người nàng đang mặc chiếc váy trắng đơn giản do sơn trang chuẩn bị, mái tóc dài chưa được vấn lên mà đang xõa tung trước ngực, trông rất mỏng manh yếu đuối. Cánh môi trước nay vẫn luôn hồng hào tươi tắn thì nay có chút nhợt nhạt, thần sắc ốm yếu.
Ánh nắng chiều ấm áp chiếu lên hành lang dài và góc mái hiên, mảnh sân tắm mình trong cơn gió êm dịu sau cơn mưa bụi. Tuyên Giác rời mắt khỏi Tạ Trùng Tự, đi đến trước cửa gỗ xem xem nhiệt độ ngoài trời ấm hay lạnh, sau đó chàng trở lại, viết lên tay Tạ Trùng Tự: “Được.”
Các quý nhân khi tới đây thường sẽ tự mang theo nô bộc, thế nên người làm ở sơn trang Trường Dương không nhiều, nhưng ai cũng đều nhanh tay lẹ mắt.
Thị nữ đứng bên cạnh định tiến lên giúp Tạ Trùng Tự mặc áo và buộc tóc nhưng bị Tuyên Giác cản lại: “Ngươi đi lấy cháo tới đây, nhớ mang theo chút đường”.
Sau khi thị nữ hối hả rời khỏi, Tuyên Giác lấy chiếc áo khoác và khăn lông treo trên giá xuống khoác lên người Tạ Trùng Tự, rồi chàng dùng dây lụa buộc mái tóc nàng lại, ôm vào hai bên má.
Tạ Trùng Tự ngoan ngoãn mở rộng hai tay để chàng giúp mình sửa soạn, đôi mắt nàng tạm thời mất đi tiêu cự, như bị một lớp sưng mù che phủ.
Tuyên Giác không nhịn được, sau khi buộc tóc cho nàng xong, chàng cúi người đặt một nụ hôn nhẹ lên mái tóc nàng.
Tạ Trùng Tự chớp mắt, cười nói: “Sao vậy, bên ngoài lạnh lắm ư?”
“Không lạnh, ánh nắng rất đẹp, gió cũng nhỏ.” Tuyên giác nhẹ giọng nói, “nhưng ta sợ nàng lạnh thôi.”
Nói vậy nhưng chàng lại viết lên tay Tạ Trùng Tự chữ “ừ”. Chàng dắt nàng đi dưới mái hiên, đi tới nơi có ánh nắng soi chiếu, người hầu đã chuẩn bị sẵn vài chiếc ghế có bọc đệm để hai người ngồi.
Người hầu cảm thấy hai người trước mặt này có dung mạo quá đẹp, khi ngồi sát cạnh bên nhau trông càng hút mắt, không biết vị tiểu thư này mắc bệnh gì mà mắt mù tai điếc, hai người bọn họ có quan hệ gì.
Phu thê ư?
Hay là vị hôn thê, vị hôn phu?
Nhưng nghe nói hai vị công tử của Tuyên gia đều chưa có hôn phối.
Hắn mải mê nghĩ ngợi, nửa quỳ trước bậc thềm hành lang giúp người thị nữ dọn đồ ăn lên bàn, không nhịn được mà ngẩng đầu lên quan sát hai người, lúc liếc qua Tuyên Giác, hắn bất chợt bị sự chiếm hữu trong đôi mắt chàng làm cho ngây ngẩn.
Chỉ một giây không để ý, chiếc đũa bạc trong tay tên người hầu rơi xuống dưới đất, hắn hoảng hốt nhặt lên rồi đi đổi một đôi mới, khi trở lại, Tuyên Giác đang khoan thai bỏ đường vào cháo, chàng không trách móc hắn mà chỉ khẽ hất cằm, ra hiệu cho hắn để đũa trên bàn là được.
Dường như ánh mắt điên cuồng, cố chấp khi nhìn Tạ Trùng Tự ban nãy chỉ là ảo giác.
Tên hầu sợ hãi lui xuống, còn không quên kéo theo người thị nữ định tiến lên hầu hạ lui xuống theo.
Trong đình lúc này chỉ còn lại hai người, chuông gió trên hành lang bị gió thổi phát ra những tiếng đinh đang lanh lảnh, giống như như ở phủ công chúa năm đó.
Dưới mái hiên trong phủ công chúa cũng được treo loại chuông gió để cầu phúc, cầu bình an giống như này.
Năm đó, khi hai thiếu niên tới từ Giang Nam tươi cười bước vào phủ công chúa, chiếc chuông đồng cũng ngân vang trong gió như vậy.
Nhĩ Ngọc tới hoàng lăng ở ngoại ô tế tổ, mất mấy ngày mới trở về.
Không biết là tên quản gia nào không hiểu chuyện, hay là đã nhận ân huệ từ ai đó nên đã nghênh đón hai người đó vào phủ.
Tuyên Giác không vui nhưng chàng chẳng để tâm, cũng chẳng bàn luận, chỉ bàng quan mặc kệ.
Khoảng thời gian đó Tạ Trùng Tự say mê cầu đồng tâm, nàng đã thu thập ngà voi về để khắc nhưng vẫn không vừa ý. Tuyên Giác đích thân ra tay thử khắc xem sao, cầu đồng tâm hay còn gọi là cầu quỷ công, bên trong có rất nhiều lớp xếp chồng lên nhau, chế tác tinh xảo, đòi hỏi tay nghề vô cùng cao.
Đang mải mò mẫm thì có kẻ tới làm phiền, dù có là thánh nhân thì cũng sẽ bực bội, chàng lạnh lùng ngước mắt lên nhìn hai kẻ đó.
Hai thiếu niên lang một áo đỏ một áo xanh, mặt mũi đều rất đẹp, thậm chí người áo xanh còn có phong thái vài cử chỉ giống chàng tới sáu phần.
Có thể thấy kẻ dâng chúng lên đã bỏ biết bao tâm tư.
Tuyên Giác lạnh nhạt cất tiếng: “Không hoan nghênh, tiễn khách”.
Hạ nhân trong viện nghe thấy lời này thì khách khí mời hai người đó ra về, thiếu niên áo đỏ nghiêng đầu nở nụ cười: “Ôi chào, sau này chúng ta sẽ cùng hầu một chủ, vị huynh đệ này xấu hổ gì chứ? Ta…”
Thanh niên áo xanh đứng bên cạnh giữ hắn lại, vẻ mặt người này biết giữ kẽ hơn rất nhiều: “Ngày khác chúng ta tới chào hỏi sau”.
Ngày thứ hai, ngày thứ ba, hai người này vẫn cứ đi tới trước mặt Tuyên Giác. Tuyên Giác cảm thấy kỳ lạ nhưng lại chẳng nói gì, chỉ căn dặn hạ nhân không được để hai người họ tới gần chàng.
Tới ngày thứ tư, thiếu niên áo đỏ cố tình tới kiếm chuyện, làm vỡ nát quả cầu đang khắc dở của chàng.
Tuyên Giác cụp mắt không nói gì, thiếu niên áo đỏ lại “ôi chao” lên một tiếng rồi nói: “Không cẩn thận. Ngày khác sẽ đền cho ngươi một cái nhé”.
Thanh niên áo xanh vội vàng đi tới, kéo tên áo đỏ lại rồi định nói lời xin lỗi. Lúc này, Tuyên Giác bỗng nhiên mở miệng: “Lui xuống hết đi”.
Lời này là nói với hạ nhân.
Sắc mặt đám hạ nhân mỗi người một vẻ, có người không nhịn được, cau mày định giúp Tuyên Giác đuổi người.
“Lui hết đi, ta có vài lời muốn nói với hai người bọn họ.” Tuyên Giác nhắc lại.
Đám hạ nhân lúc này mới lũ lượt lui ra khỏi cửa viện.
Đến khi trong sân không còn ai, thiếu niên áo đỏ vươn vai ưỡn người, ngồi phịch xuống bên cạnh Tuyên Giác, rồi tự nhiên như không tự rót một chén trà cho mình.
Tuyên Giác khẽ cười một tiếng: “Ngày khác đền cho ta một cái? Ngươi biết khắc sao?”
“Đâu có biết.”
“Thế ngươi định mua đền cho ta?”
“Ta không có tiền, vừa mới chuộc thân xong”.
Tuyên Giác lại hỏi: “Vậy ngươi định lấy gì đền cho ta? Dùng hai chân của ngươi ư? Hay là đầu?”
Nụ cười của thiếu niên áo đỏ lập tức cứng lại, khoảnh khắc đó, hắn cảm thấy Tuyên Giác không hề nói đùa. Chàng thực sự muốn chặt chân hoặc lấy mạng hắn.
Hắn đột nhiên hiểu ra, tại sao đám người ở Giang Nam lại nhất định phải lôi kéo bằng được tên con trai của tội thần này.
Lúc hắn còn đang sững sờ, Tuyên Giác bỗng chuyển chủ đề: “Tìm ta có việc gì?”
Trên dưới khắp người tên thiếu niên áo đỏ đều cố gắng thể hiện sự hỗn xược do được nuông chiều mà ra, nhưng…
Muốn như vậy thì phải được nuông chiều cái đã, ngay cả mặt của Nhĩ Ngọc hắn còn chưa thấy thì lấy đâu ra sự tự tin tới như vậy?
Những tên được dạy dỗ từ nhỏ như bọn chúng vốn rất giỏi nhìn mặt đoán ý, hành xử cẩn trọng, Tuyên Giác không cho rằng bọn chúng ngu ngốc tới mức tự tìm đường chết.
Thiếu niên áo xanh tỏ ra điềm tĩnh hơn, thấy chàng hỏi, hắn ngồi thẳng lưng xuống trước mặt chàng, nói: “Giang công nhờ ta gửi lời chào tới ngài.”
Tuyên Giác lập tức hiểu ra… là Ứng Thiên Giang gia.
“Trong yến tiệc diễn ra vào một tháng trước, bọn ta có gửi cho ngài một bức thư, ngài vẫn chưa hồi âm.” Hắn tiếp tục nói, “nội dung trong thư, chắc hẳn ngài vẫn chưa đọc, Giang công sai ta tới nói lại với ngài.”
Tuyên Giác dứt khoát nói: “Ở những nơi như yến tiệc cung đình, tốt hơn hết là không giở trò gì, đúng chứ?”
Thiếu niên áo xanh gật đầu: “Đúng vậy, nhưng tình thế quả thực cấp bách, bọn ta muốn ngài mau chóng biết chuyện. Tề gia rơi đài, liên lụy tới Tuyên gia, tội danh phản quốc, bức thư đó do đích thân ngài đưa, ngài chắc hẳn phải biết nó là giả đúng chứ? Ngài không muốn biết, kẻ đã động chân động tay là ai ư?”
Tuyên Giác khẽ ngước mắt, ánh mắt trong vắt như thủy tinh khi lạnh đi trông vô cùng xa lạ.
Thiếu niên áo xanh tưởng rằng chàng nghe thấy chuyện bất trắc của gia tộc nên thần sắc mới lạnh đi, hắn từ từ cất tiếng: “Thái tử Tạ Trị”.
Quá hấp tấp. Tuyên Giác nghĩ thầm.
Tộc trưởng của Giang gia là một ông lão râu tóc bạc phơ, tính cách vô cùng nhẫn nại. Vậy mà lại mạo hiểm tới tìm chàng những hai lần, chắc hẳn đã xảy ra biến cố nào đó.
Tuyên Giác làm như vô tình hỏi: “Thái tử ư? Hắn làm vậy là để trừ khử Hoàng gia và tam hoàng tử sao?”
“Đúng vậy. Tam điện hạ trước đây qua lại mật thiết với Tề gia, một mũi tên trúng nhiều đích”.
Tuyên Giác chuyển chủ đề: “Các ngươi tiến triển tới đâu rồi?”
Thiếu niên áo xanh tỏ ra bất lực: “Ngài thấy bọn ta là những kẻ có đủ tư cách biết rõ mọi chuyện ư?”
Tuyên Giác vừa thăm dò vừa từ tốn lên tiếng: “Giang Thành lão tiên sinh có bạn cũ ở binh bộ, sau được thăng chức chuyển tới quân đội Nam Dương, các tướng lĩnh dày dặn kinh nghiệm ở đó có Trương Kỳ, Điền Dương và Cố Mạnh, ai là người đã bị lôi kéo?”
Nếu chỉ là một đám cáo già không binh không mã thì đâu có dám tạo phản.
Càng không dám tỏ ra nóng vội thế này.
Thiếu niên áo xanh híp mắt.
“Trương Kỳ năm ngoái vừa gả con gái, nhà chồng là Bình Quận Vương, ắt hẳn không thể nào lấy đầu của nhiều người như vậy ra mạo hiểm được; Cố Mạnh xuất thân thấp hèn, trước nay chưa từng qua lại mật thiết với thị tộc, thậm chí hắn còn thường xuyên dâng tấu xin tăng thuế của người giàu để bổ sung cho quân đội; chỉ còn Điền Dương, cả chính thê lẫn tiểu thiếp đều là tỷ muội xuất thân thị tộc, thái tử từng cắt giảm ngân sách, bắt hắn phải trấn áp thổ phỉ ở Nam Dương hơn một năm.” Tuyên Giác chợt dừng lại, thấy bàn tay của thiếu niên áo đỏ khẽ run lên, suýt chút nữa thì làm rơi vỡ chiếc chén làm bằng sứ thanh hoa, chàng thuận tay đỡ lấy, tiếp tục nói: “Nếu như có quân đội của Điền Dương tham gia, Giang lão gia sốt ruột cũng là điều dễ hiểu.”
Sự kinh ngạc khẽ loé lên trong ánh mắt thiếu niên áo xanh bị Tuyên Giác bắt được.
Chàng thầm nghĩ: À, hóa ra là Điền Dương thật. Mười lăm vạn binh mã, đúng là không thể xem thường.
Nhưng… như vậy thì sao chứ?
Tuyên Giác không rõ là đang chế nhạo hay châm biếm, chàng từ từ cất tiếng: “Giang lão muốn để lại cho con cháu một mớ rắc rối hay sao?”
Lời này rõ ràng là đang giễu cợt Giang Thành, nói ông ta đầu óc lú lẫn, sống chẳng được bao lâu nữa.
Thiếu niên áo xanh im lặng hồi lâu, lúc này cũng nở nụ cười: “Công tử, ngài thực sự cho rằng chỉ có mình Giang gia nhúng tay vào vũng nước đục này hay sao? Giang gia lôi kéo được Điền Dương, quân đội hùng mạnh, tiền tài như nước, có thể vẫn chưa đủ. Vậy thì thêm Sở gia thì sao? Nếu vẫn chưa đủ thì còn có Mông gia và Tần gia. Nếu vẫn chưa đủ nữa thì còn có vô số các thị tộc lớn nhỏ ở Giang Nam, tất cả cùng hợp sức, lẽ nào không thể làm nên chuyện?”
“Cho dù không có ngài thì thế cục cũng sẽ không đổi. Triều đình ra sức trấn áp, tăng thuế quan, thị tộc oán hận đã lâu. Nếu tam điện hạ kế vị thì tốt, còn thái tử và bệ hạ có quan điểm chính trị giống nhau, thái tử kế vị sẽ chỉ tăng cường áp chế thị tộc.” Thiếu niên áo xanh lắc đầu. “Thái tử cũng không thể nào cản được. Hắn lên kế hoạch diệt trừ Tề gia, sở dĩ có thể thành công là do hành động quá nhanh, tất cả mọi người đều trở tay không kịp. Còn hiện tại cứ thử ra tay mà xem? Thị tộc đông đảo như vậy, hoàng quyền có thể thay đổi còn bọn họ sẽ tồn tại vĩnh viễn”.
Tuyên Giác đã lâu không nghe ngóng thế sự bên ngoài nên lúc này có chút sững sờ.
Trước đây khi chàng một mình du ngoạn khắp Đại Tề, thị tộc không ít lần có ý lôi kéo chàng nhưng chưa từng trắng trợn thế này. Do Tề gia bị tiêu diệt quá nhanh và thảm khốc nên mới khiến cho chúng bị dồn vào đường cùng, vùng lên phản kháng ư?
Chàng trầm giọng nói: “Không sợ ta tố giác các ngươi sao?”
Thiếu niên áo đỏ bên cạnh mở trừng mắt như thể nghe thấy một câu chuyện nực cười: “Không phải chứ? Ngươi đi giúp đỡ kẻ thù ư? Tố cáo bọn ta thì sao? Cùng lắm cũng chỉ khiến cho thời gian khởi binh nhanh hơn một hai năm thôi, ai là kẻ thắng cuộc chắc ngươi cũng dễ dàng đoán ra nhỉ? Hơn nữa…” Hắn hất cằm nói bằng giọng khinh khỉnh: “Ngươi nên nhìn rõ xem ta có thân phận thế nào, ta là đào kép thấp hèn được sinh ra bởi kỹ nữ, chỉ cần ta muốn là có thể kéo người theo. Muốn thử không?”
Thiếu niên áo xanh cũng lên tiếng: “Công tử cần phải hiểu rõ, cho dù ngài sợ phiền phức, không muốn nhúng tay vào vũng bùn này thì cũng không tới nỗi trở thành con dao của kẻ khác, hại người có chung kẻ thù với mình chứ?”
“Đúng vậy.” Tuyên Giác hiểu hắn đang cố tạo ra mâu thuẫn, nhưng chàng không thể không thừa nhận điều hắn nói là đúng, một lúc sau chàng mới khẽ nói, “ta sẽ không”.
Nhân nghĩa lễ hiếu, huyết mạch tình thân, đây là điểm mấu chốt. Cho dù có xảy ra chiến loạn thì chàng cũng chẳng thể nào giúp Tạ Trị trấn áp thị tộc được.
Tạ Trị không xứng.
Thiếu niên áo xanh thấy nét mặt Tuyên Giác trở nên khó lường thì để thời gian cho chàng suy nghĩ, chuẩn bị lên tiếng cáo từ.
Trước khi rời đi, hắn bỗng nhớ ra gì đó, làm như vô tình hỏi: “Phong thư trước đó, ngài thực sự không nhận được sao?”
Nếu như không phải những vật như thư tín hay tín vật bị thất lạc thì bọn chúng cũng chẳng mạo hiểm mà đưa người vào phủ công chúa truyền tin.
Tuyên Giác đi lướt qua người hắn, như thể nhìn thấy tro tàn trong lư hương ở góc đông nam của thư phòng sau cánh cửa gỗ, chàng khẽ cười, thần sắc vẫn như thường, nhẹ giọng nhắc nhở:
“Chưa từng. Có lẽ các ngươi đã xảy ra sai sót ở khâu nào đó rồi. Nhớ về điều tra kỹ đừng để lộ bất cứ sơ hở gì. Nếu như cần đưa tai mắt vào trong cung, ta có thể giúp đỡ đôi chút.”
Thiếu niên áo xanh đáp lại một tiếng, nhìn chàng bằng ánh mắt sâu thẳm rồi trầm ngâm rời đi.
Cơn gió mùa hạ càng lúc càng mạnh, chuông đồng cũng theo đó mà đung đưa.
Hơi thở của Tuyên Giác trở nên hỗn loạn, năm ngón tay bấu chặt vào giá trúc đến mức trắng bệch. Cuối cùng, sau tiếng kêu lanh lảnh, chiếc chuông đồng có khắc bốn chữ “bốn mùa bình an” và kinh phật cũng rơi xuống.
Tiếng chuông cũng theo đó biến mất, lúc này chỉ còn lại tiếng gió rít gào trong yên lặng, như thể đang chiếu cáo, ngọn lửa ở Giang Nam đã bùng lên và dần lan rộng.
Chàng không chịu nổi nữa, trái tim như bị bóp nghẹt, miệng phun ra một ngụm máu, sau đó lên cơn ho dữ dội.
Người hầu nghe thấy chàng ho mãi không ngừng thì lo lắng không thôi, vội vàng đỡ chàng dậy, mời ngự y.
Sau khi chàng khỏi bệnh, một chiếc chuông đồng có bốn chữ “bốn mùa bình an” khác lại được treo lên mái hiên. Chiếc chuông này không phát ra âm thanh nặng nề như cái trước mà trong trẻo hơn rất nhiều.
“Cháo ngọt ư.” Giọng nói của Tạ Trùng Tự lộ ra sự vui vẻ, kéo Tuyên Giác trở về với hiện thực, “bỏ đường vào sao?”
Tuyên Giác không chỉ bỏ đường, nói đúng ra thì chàng đã đổ cả bát đường vào mới đúng, chàng biết Tạ Trùng Tự không nghe thấy nhưng vẫn trả lời: “Ừ, nhưng ngọt lắm, chỉ được ăn một bát thôi.”
Tạ Trùng Tự quả nhiên không nghe thấy, nàng ăn từng thìa từng thìa tới khi hết sạch, đôi mắt hạnh cong lên thỏa mãn, nói: “Ngon lắm, còn không?”
Tuyên Giác viết vào lòng bàn tay nàng một chữ “không”.
Nàng như thể làm nũng, vân vê các ngón tay trên bàn tay trái của người trước mặt, miết đi miết lại các đường vân tay bên trên.
Sau đó bỏ ra.
Xúc cảm trên tay vẫn còn rất trì trệ, nàng không phân biệt được đây là tay người, hay là cánh tay bằng gỗ của sư tỷ.
Thế nhưng… có thể khiến nàng nếm ra vị ngọt, tức là bát cháo đó đã bỏ rất nhiều đường, Giang Châu Tư không phải kiểu người tỉ mỉ đến mức sẽ mặc áo khoác, thêm gia vị vào đồ ăn cho nàng.
Lúc này, nàng chẳng thể xác định được người trước mắt có thật sự là sư tỷ hay không.
Vậy nên Tạ Trùng Tự bỏ tay ra, làm ra vẻ không có gì thở dài một tiếng: “Vậy thì thôi, ta cũng no rồi. À mà sư tỷ, Tuyên Giác có trở lại Tuyên phủ hỏi ta đi đâu không?”
???
____________