Sau Khi Nhận Lầm Vai Ác Thành Ca Ca
Chương 94: Tiểu Sanh, đang nói về ta sao?
Đêm nay là đêm Giao Thừa, ngày mà người người nhà nhà đoàn tụ bên nhau, quân phản loạn bên ngoài tạm thời không có động tĩnh, Chung Yến Sanh bèn cho các triều thần được nghỉ ngơi một ngày.
Chung Tư Độ không ở phủ Hầu gia bên cạnh cha mẹ, đến cung để làm gì?
Chung Yến Sanh ngẩn người một lúc, rồi xoa xoa đôi tai đang ù đi: “Đưa y vào đi.”
Chung Tư Độ đến mang theo một hộp đựng thức ăn.
Đêm Giao Thừa năm ngoái Chung Yến Sanh vẫn còn ở phủ Hầu gia, giờ thân phận đã khác, quay lại phủ Hầu gia cũng không hợp tình hợp lý.
Hầu phu nhân nghĩ đến Chung Yến Sanh chỉ có một mình trong cung, trong lòng không nỡ, vốn định tự mình vào cung, nhưng gần đây bà bị cảm lạnh, cuối cùng vẫn là Chung Tư Độ chủ động đứng ra.
Trong hộp đựng đồ ăn là những món ăn nhỏ Chung Yến Sanh thích, đều do đầu bếp cậu quen làm cho.
Bên trong vẫn còn nóng hổi. Lúc này Chung Yến Sanh đã rất no rồi, nhưng không nỡ phụ lòng mẹ, bèn cầm đôi đũa ngọc lên gắp thử một miếng, mỉm cười với Chung Tư Độ: “Đa tạ ngươi đã đi một chuyến, về thay ta cảm ơn mẹ.”
Không biết có phải Chung Tư Độ lo lắng về kỳ thi Hội hay không mà sắc mặt trông có hơi tiều tụy, không đáp lời Chung Yến Sanh, giọng nói cũng hơi khàn: “Ta có thấy vài binh lính tuần tra trước cổng cung.”
Chung Yến Sanh đặt đũa xuống: “Có chuyện gì sao? Có vài người là của Cảnh Vương Điện hạ.”
Sau khi nhận được tin thắng lớn ở Mạc Bắc, Chung Yến Sanh vui mừng khôn xiết, nhưng đoán rằng quân phản loạn có lẽ sẽ sớm phát động tổng tấn công, nên đã điều những binh lính cuối cùng trong cung ra tiền tuyến, chỉ giữ lại một đội Hắc Giáp Vệ nhỏ bên cạnh.
Cậu phải bảo vệ không chỉ là hoàng cung mà còn là cả Kinh thành.
Nhưng trong cung rộng lớn như vậy, chỉ với vài chục Hắc Giáp Vệ thì làm sao có thể canh giữ nổi. Cung điện vắng ngắt, lỡ như có thích khách lẻn vào cũng không ai hay biết. Bùi Hoằng đã đề nghị với Chung Yến Sanh để cận vệ của hắn ta canh giữ cổng cung.
Từ khi Cảnh Vương đến Kinh thành, hắn ta đã nhượng lại binh quyền, an phận ở lại trong cung, không hề can thiệp vào cận vệ của bản thân hay việc triều chính, những người trong triều lúc đầu nghi ngờ Cảnh Vương cũng dần buông lỏng cảnh giác.
So với những người mà lão Hoàng đế để lại, Chung Yến Sanh tin tưởng Bùi Hoằng hơn.
Chung Tư Độ lại im lặng hồi lâu, nhìn chằm chằm vào Chung Yến Sanh, môi mấp máy, bỗng nói: “Ngươi có biết, ta đã biết về thân phận của mình từ khi nào không?”
Chung Yến Sanh ngẩn ra, không khỏi ngồi thẳng lên: “Từ… khi nào?”
Chung Tư Độ hơi nhíu mày, nhưng không trả lời thẳng mà kể lại một vài chuyện xưa.
Năm đó, ám vệ bế Chung Tư Độ đi đã bị thương nặng, không kịp đưa y đến tay người của phủ Hoài An Hầu sắp xếp.
Người nông dân nhận nuôi Chung Tư Độ không hảo tâm như vậy. Từ nhỏ y đã thiếu ăn thiếu mặc, khó khăn lắm mới không bị chết đói, khi lớn hơn một chút thì phải giúp việc cho nhà nông, tay chân chậm chạp hay ăn nhiều một miếng cũng bị đánh. Người nông dân ấy thường chửi bới y là “Đồ con hoang bị cha mẹ bỏ rơi, nếu không có ông đây thì mày đã bị sói tha đi ăn thịt rồi.”
Mãi đến năm Chung Tư Độ mười tuổi, khu vực đó bùng phát nạn đói, người nông dân tính đổi Chung Tư Độ đi lấy lương thực.
Chung Yến Sanh trợn tròn mắt, Chung Tư Độ chưa bao giờ kể những điều này với ai. Khi nhắc đến chuyện hồi nhỏ, y chỉ nở một nụ cười hoàn mỹ nói rằng “Cha nuôi ta mất khi ta mười tuổi.”
“Ngươi có biết ông ta chết thế nào không?”
Tim Chung Yến Sanh nặng trĩu, gần như sắp không thở được: “Chết… như thế nào?”
Giọng điệu của Chung Tư Độ rất nhẹ nhàng: “Ta thường đến giúp việc cho thầy lang trong làng, trộm được một ít thuốc.”
Y bôi thuốc lên một nửa chiếc bánh bao khó khăn lắm mới xin được, khéo léo đưa cho người nông dân đã đói sắp mất trí.
Sau khi lục lọi được một chút đồ dùng có thể sử dụng, y lặng lẽ rời đi.
Lúc đó có rất nhiều người chết đói, đương nhiên sẽ không ai để ý.
Tim Chung Yến Sanh đập thình thịch, sống lưng lạnh toát, mồ hôi túa ra, cổ họng hơi nghẹn lại: “Ngươi…”
“Ta đã đi rất xa, không biết đã đến được nơi nào, trở thành một kẻ ăn mày, thường xuyên nằm bò bên ngoài một tư thục để nghe lén. Những gì ông ta dạy, ta chỉ cần nghe một lần là nhớ, còn có thể học một hiểu ba. Thấy ta có thiên phú học hành, ông ta bèn nhận ta làm con nuôi, để ta viết thơ làm văn dưới danh nghĩa của ông ta.”
“Sau đó ta lén đi thi viện thí, đỗ đầu bảng, gặp được một người.”
Chung Tư Độ thật sự rất giống vợ chồng Hoài An Hầu, chỉ cần là người đã gặp vợ chồng Hoài An Hầu đều có thể nhận ra thân phận của y, huống chi còn có tín vật của phủ Hầu gia làm chứng.
Từ người đó, Chung Tư Độ đã biết thêm nhiều điều.
Khi biết được thân thế của mình, Chung Tư Độ không mấy vui mừng, mà nhiều hơn là bàng hoàng, phẫn nộ và căm hận.
Sau đó y lặn lội ngàn dặm đến Kinh thành tìm người thân, lại bị sắp xếp ở biệt viện ngoài Kinh thành, không thể đường đường chính chính trở về phủ Hầu gia, nhận lại cha mẹ, khôi phục thân phận của mình.
Giọng Chung Tư Độ nhẹ nhàng, mang theo sự ôn hòa như mọi khi: “Bây giờ ngươi biết tại sao khi vừa trở về phủ Hầu gia, ta lại ghét ngươi như vậy rồi chứ? Ngươi quả thật vô tội, nhưng ta hận ngươi… có sai không?”
Giọng Chung Yến Sanh nghẹn ngào, hốc mắt hơi đỏ: “Không có… xin lỗi.”
“Ngươi không cần cảm thấy áy náy.” Giọng Chung Tư Độ rất thấp: “Ta chỉ là…”
Chỉ là gì, Chung Tư Độ lại không nói tiếp. Trong lòng Chung Yến Sanh vừa nặng nề vừa đau khổ, cũng không đành lòng truy hỏi nữa.
Trong phòng im lặng hồi lâu, Chung Tư Độ mới lên tiếng: “Cảnh Vương Điện hạ còn ở trong cung, ta không tiện ở lại lâu. Ngươi ở trong cung cũng không thể cùng đón Tết Nguyên Tiêu. Mẹ đã nấu bánh trôi nước, nhớ ăn một ít, ta đi trước.”
Câu sau của y không liên quan gì đến câu trước. Chung Yến Sanh vẫn còn chìm trong cảm xúc nặng nề vừa rồi, đột nhiên nghe thấy hai câu này, ngơ ngác ngẩng đầu nhìn theo động tác của y, nhỏ giọng hỏi: “Chung Tư Độ, trong lòng ngươi, thật ra vẫn rất ghét ta phải không?”
“… Có lẽ vậy.”
Chung Tư Độ khoác thêm áo choàng, đẩy cửa rời đi.
Bên ngoài tuyết lại rơi, tiếng tuyết rơi lách tách khiến cung điện càng thêm tịch mịch.
Chung Yến Sanh ngồi trước bàn, một lúc lâu sau mới cầm hộp thức ăn có bánh trôi nước hơi nguội lên, định ăn một miếng.
Khi nhấc bát lên, ngón tay chạm phải thứ gì đó ở đáy bát.
Chung Yến Sanh nâng bát lên cao hơn một chút, phát hiện một tờ giấy gấp vuông vức được dán ở đáy bát.
Là do Chung Tư Độ lén đặt dưới bát sao? Lúc nãy y còn nhắc cậu đêm Nguyên Tiêu nhớ ăn bánh trôi nước.
Tại sao ở trong cung mà Chung Tư Độ lại phải cẩn thận như vậy, sợ ai nghe thấy?
Chung Yến Sanh ngẩn người, nhịp tim vô thức đập nhanh hơn, cẩn thận lấy tờ giấy đó xuống mở ra xem.
Có lẽ vì sợ lính canh trong cung kiểm tra hộp thức ăn bị phát hiện, nên trên tờ giấy chỉ viết hai câu thơ: “Người xa nơi góc trời, tin về lệ đã rơi.”
Ngoài việc ăn bánh trôi, đêm Nguyên Tiêu còn có một ý nghĩa khác.
Chung Yến Sanh nhìn chằm chằm vào hai câu thơ đó, ngây người một lúc lâu mới hơi tái mặt, run tay đưa tờ giấy đến gần ngọn nến, đốt cháy tờ giấy đó.
Ngay sau đó cậu nhanh chóng viết hai bức mật thư, gọi Vệ Lăng đến đưa cho ông: “Một bức gửi đi Thái Nguyên, một bức gửi đến Mạc Bắc.”
Nhưng tình hình còn tệ hơn Chung Yến Sanh nghĩ.
Sáng sớm hôm sau, Vệ Lăng vội vã gõ cửa phòng Chung Yến Sanh.
Từ trước đến nay Vệ Lăng luôn cẩn trọng chu đáo, cũng thương yêu Chung Yến Sanh, nếu không phải chuyện cực kỳ gấp gáp, tuyệt đối sẽ không đến gọi Chung Yến Sanh dậy từ sáng sớm.
Chung Yến Sanh biết điều này, cố nén cơn buồn ngủ, xoa mắt hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Vệ Lăng nghiêm mặt nói: “Tiểu chủ tử, bồ câu đưa thư ra khỏi Kinh thành đều bị bắn chết, trong lồng chỉ còn lại rất ít, sáng nay mấy con cuối cùng cũng chết rồi.”
Thái dương Chung Yến Sanh giật liên tục, cố nén nỗi sợ hãi hỏi: “Chết thế nào?”
“Đang cho Thái y kiểm tra.” Vệ Lăng ngừng lại một chút: “Thuộc hạ cảm thấy, có thể là do trúng độc.”
Hiện tại quân phản loạn đã phong tỏa ngoài thành, muốn phái người ra khỏi thành truyền tin gần như là không thể, nếu bồ câu cũng không thể truyền tin ra ngoài, Kinh thành thật sự sẽ rơi vào tình cảnh cô lập.
Mấy ngày nay, vì có viện quân của Cảnh Vương, Chung Yến Sanh không vội cầu viện bên phía Thái Nguyên. Hơn nữa họ vẫn còn nhận được thư tín từ Mạc Bắc, nên khó nhận ra rằng, không biết từ khi nào thư tín của họ đã bị phong tỏa trong Kinh thành, không truyền ra ngoài được nữa.
Chung Yến Sanh khoác áo ngoài, tóc tai rối bời đi đi lại lại mấy vòng, rồi mới bình tĩnh nói: “Trước tiên đừng để lộ chuyện này, nghĩ cách truyền tin ra ngoài đi.”
Vệ Lăng suy nghĩ một lúc lâu: “Tiểu chủ tử, bây giờ có lẽ vẫn còn một cách để truyền tin ra ngoài.”
Mắt Chung Yến Sanh sáng lên: “Cách gì?”
“Thuộc hạ cũng không chắc là thật hay giả.” Vệ Lăng do dự nói: “Nghe nói năm đó khi Thái Tổ công chiếm Kinh thành, xây lại hoàng cung, đã ra lệnh cho người xây một đường hầm bí mật dưới lòng đất, nối từ trong cung ra ngoài thành, để lại cho con cháu đời sau phòng khi bất trắc. Nhưng chỉ khi Trữ quân chính thức đăng cơ mới có thể nhận được bản đồ của đường hầm đó.”
Năm đó khi Thái tử tiền nhiệm mưu phản, họ không thể tìm thấy cái gọi là đường hầm bí mật này.
Nếu như khi đó có thể tìm ra đường hầm này… có lẽ Thái tử phi đã được cứu.
Chung Yến Sanh vừa mới ngủ dậy, ngáp dài mấy tiếng, mơ màng suy nghĩ, một lúc sau mới gật đầu: “Không có lửa làm sao có khói, chưa chắc đã là giả, ngươi phái người hành động cẩn thận, điều tra khắp cung một lượt.”
“Vâng!”
“Mang nước nóng đến, ta rửa mặt rồi đến điện Dưỡng Tâm.”
Chung Yến Sanh cũng không mong chờ sẽ nghe ngóng được gì từ lão Hoàng đế. Dù lão già đó giờ đây đã rơi vào tình cảnh thảm hại, cả người dơ bẩn, bị Ô Hương hành hạ, nhưng miệng lưỡi chẳng được mấy câu thành thật.
Dù sao, đây cũng là người đã ngồi vững trên ngai vàng mấy chục năm. Chung Yến Sanh dù căm ghét lão, nhưng cũng phải thừa nhận rằng tâm tính của lão già đó thật sự không phải hạng người thường có thể so bì.
Khi đến điện Dưỡng Tâm, Chung Yến Sanh còn chưa bước vào đã nhìn thấy hai người.
Là Điền Hỉ và Bùi Hoằng. Điền Hỉ đang cúi đầu thật thấp, không biết đang nói gì, còn Bùi Hoằng có lẽ còn đang say rượu chưa tỉnh, vẻ mặt vẫn lạnh băng như tối qua.
Nghe thấy tiếng bước chân, Bùi Hoằng quay đầu lại. Nhìn thấy là Chung Yến Sanh, hắn ta mới nở nụ cười quen thuộc, phe phẩy cái quạt trêu chọc: “Tiểu Sanh, người bận rộn như ngươi sao lại có thời gian đến đây?”
Chung Yến Sanh dừng bước, liếc nhìn Điền Hỉ đang cúi đầu im lặng, rồi mỉm cười với Bùi Hoằng: “Hôm nay là mùng một, ta đến thăm hỏi Bệ hạ.”
“Trùng hợp ghê, ta cũng đến đây để hiếu kính.” Bùi Hoằng nhún vai: “Tiếc là Bệ hạ vẫn chưa tỉnh. Ngươi muốn thử nhét tuyết vào cổ áo lão ta xem có tỉnh không? Hay châm lửa trên đầu lão thử?”
Chung Yến Sanh: “…Cảnh Vương Điện hạ, có phải như vậy hơi thất đức không?”
Điền Hỉ cũng lau mồ hôi không ngừng.
Bùi Hoằng cười ha hả, gập quạt lại, mỉm cười: “Không sao, lão đáng bị thế.”
Chung Yến Sanh không tự chủ được lùi lại một bước, nhỏ giọng nói: “Thôi, mới đầu năm, cũng không phải chuyện gì gấp gáp, ta không làm chuyện này đâu.”
Đang nói, Vệ Lăng bước vào từ bên ngoài, cúi đầu hành lễ: “Tiểu chủ tử, quân phản loạn ngoài thành có hành động khác thường, mấy vị các lão và Binh bộ Thượng thư cầu kiến.”
Vệ Lăng đến thật đúng lúc, Chung Yến Sanh lại lùi một bước, đối diện với ánh mắt sâu thẳm của Bùi Hoằng, duy trì giọng điệu mềm mại: “Cảnh Vương Điện hạ, ta còn có việc, đi trước.”
Bùi Hoằng bỗng dưng tiến lên hai bước, đưa tay chạm nhẹ vào khuôn mặt gầy gò của cậu, thở dài: “Lại gầy đi nhiều rồi.”
Đầu ngón tay của hắn ta lạnh buốt, cảm giác khác hoàn toàn ngón tay có vết chai mỏng của Tiêu Lộng. Khi Tiêu Lộng dịu dàng vuốt ve tóc và gò má Chung Yến Sanh, cậu luôn cảm thấy rất an toàn.
Nghĩ đến Tiêu Lộng, hàng mi của Chung Yến Sanh khẽ run rẩy, hốc mắt dường như lại trở nên ướt át, chóp mũi cay cay. Đôi mắt đen trước đây luôn tràn đầy tình cảm giờ lại ngấn nước, ánh lên một lớp lệ mỏng manh.
Vẻ đáng thương này cực kỳ khiến người ta trìu mến, Bùi Hoằng rút tay lại, giọng trầm ấm: “Tiểu Sanh nên được người khác bảo vệ thật tốt trong vàng son nhung lụa, không nên để tổn hại sức khỏe đến vậy.”
Chung Yến Sanh chớp mắt mấy cái để loại bỏ cảm giác ướt át, nghiêm túc nói: “Cảnh Vương Điện hạ, chính vì ta sinh ra trong nhung lụa, nên khi gặp hoạn nạn càng phải thực hiện chức trách của mình.”
Bùi Hoằng ngừng lại, rồi cười một tiếng: “Nói đúng lắm. Ta không giữ ngươi lại nữa, mau đi đi, Tiểu Sanh.”
Không ngoài dự đoán của Chung Yến Sanh, tin thắng trận từ Mạc Bắc lại được truyền về. Trong Kinh thành ai nấy đều mừng rỡ, nhưng đối với quân phản loạn mà nói, đây chắc chắn là một tin xấu, thời gian trở nên gấp rút hơn.
Chưa đầy hai ngày, Hoắc Song lại báo về rằng không tìm thấy An Vương trong quân phản loạn, nhưng quả nhiên quân phản loạn đã có hành động, phát động cuộc tấn công mạnh mẽ vào Kinh thành. Nếu không có cận vệ của Cảnh Vương, e rằng quân địch đã bao vây sát tường thành rồi.
Vào ngày mùng sáu, Kinh thành hiếm khi có một hôm trời quang.
Tiêu Văn Lan xách theo một vò rượu ngon, hào hứng đi tìm Bùi Hoằng uống rượu.
Khoảng thời gian này Bùi Hoằng tự do ra vào cung điện, hắn ta ở một cung mà trước đây từng có thời gian ở lại. Từ nhỏ Tiêu Văn Lan thường xuyên vào cung, lại hay đến tìm Bùi Hoằng chơi, nên rất quen thuộc với các ngõ ngách, đi đường tắt từ cửa sau vào trong điện, đến đình hồ nơi thường uống rượu với Bùi Hoằng.
Trong cung của Cảnh Vương dường như không có người, cũng chẳng ai dọn tuyết trên đường. Tuyết tích tụ đã mấy ngày, hôm nay trời lại nắng nên đường đi rất trơn.
Tiêu Văn Lan đi không nhìn đường, bất ngờ trượt chân ngã một cú đau điếng, vò rượu trong tay cũng vỡ tan, đổ hết lên người, mùi rượu nồng nặc xộc vào mũi.
Hắn ngã mạnh đến hoa cả mắt, rên rỉ một hồi lâu. Khi ngẩng đầu lên, hắn mới phát hiện ngọc bội đeo trên người đã bị văng ra ngoài, trượt dài trên mặt hồ đóng băng, cuối cùng dừng lại sau núi giả.
Miếng ngọc bội này Tiêu Văn Lan đã mua với giá mấy vạn lượng bạc.
Thấy mấy vạn lượng bạc bay đi, Tiêu Văn Lan cũng không kịp bò dậy, nhịn đau dùng ba chân bốn cẳng bò qua, nhanh chóng vồ lấy miếng ngọc bảo bối. Hắn cẩn thận ngắm nghía, thấy không có vết nứt nào mới thở phào, hí hửng hôn chóc chóc mấy cái.
Cơ thể thật sự rất đau đớn, Tiêu Văn Lan nhe răng trợn mắt. Hắn ngồi nghỉ ngơi một lúc, vừa định vịn vào núi giả để đứng dậy thì nghe thấy tiếng nói chuyện ở xa.
Hắn thầm vui mừng, vừa định gọi người tới đỡ mình một tay thì nghe thấy một câu: “Ngươi đã kéo dài quá lâu rồi, chẳng lẽ đã mềm lòng?”
Giọng nói này có hơi xa lạ, nhưng nội dung lại khiến Tiêu Văn Lan bối rối, theo bản năng ngậm miệng lại, không kêu lên.
Ngay sau đó hắn nghe thấy một giọng nói khác quen thuộc hơn, so với bình thường, nó có hơi trầm thấp: “Không có.”
Tim Tiêu Văn Lan bỗng dưng đập thình thịch. Hắn ngẩng đầu lên, lén quan sát từ phía sau núi giả, vừa nhìn rõ người đi tới là ai thì hai mắt trợn to.
Mấy ngày trước, hắn đã thấy người này trong bức chân dung mà Chung Yến Sanh vẽ trong thư phòng.
Hôm đó Chung Yến Sanh đã nói với hắn người này là thủ lĩnh của quân phản loạn.
Tại sao thủ lĩnh quân phản loạn lại xuất hiện trong cung?!
Tiêu Văn Lan theo bản năng cảm thấy mình đã từng gặp người này, nhưng lúc này hắn đã căng thẳng đến cực điểm. Đầu óc vang lên ong ong, mồ hôi tuôn ra như mưa, tâm trí trống rỗng, hoàn toàn không thể nhớ ra đây là ai, đã gặp ở đâu. Hắn chỉ biết đưa tay bịt chặt miệng lại, không dám phát ra dù chỉ một tiếng.
Hắn hận không thể lập tức bất tỉnh, tránh cho nghe phải bí mật gì đó rồi bị phát hiện diệt khẩu.
Một lúc sau, hắn trơ mắt nhìn hai người kia đi về phía đình bên hồ, tiếng nói chuyện càng lúc càng rõ ràng.
“Quả nhiên ngươi đã mềm lòng. Hừ, chẳng được tích sự gì, nếu ngươi tàn nhẫn hơn một chút, lần đó ở vườn Thấm Tâm đã có thể giải quyết phiền phức này rồi, cũng không để phát sinh nhiều chuyện như vậy.”
Rõ ràng đang là mùa đông, nếu buổi tối không đốt lò sưởi thì chăn cũng lạnh cóng, nhưng sau lưng Tiêu Văn Lan lại toát mồ hôi không ngừng.
Vườn, vườn Thấm Tâm.
Hắn nhớ, ngày đó Chung Yến Sanh vừa theo vợ chồng Hoài An Hầu về Kinh, Cảnh Vương đã gọi nhóm bọn họ cùng đi dạo chơi với Chung Yến Sanh.
Đám công tử chỉ biết ăn chơi vô tích sự kia đến nơi cũng chỉ lo ăn uống chè chén. Sau đó tất cả đều say khướt, không ai để ý tại sao Chung Yến Sanh lại rơi xuống hồ.
Trong đám người đó chẳng mấy ai biết bơi, những người biết bơi thì đã say bét nhè, cho dù có tỉnh táo cũng chẳng dám mạo hiểm nhảy xuống hồ nước lạnh đầu xuân để cứu người. Cứ do dự như vậy một lúc, Chung Yến Sanh suýt chết đuối trong hồ.
Cuối cùng vẫn là Cảnh Vương Điện hạ bất chấp nguy hiểm nhảy xuống nước cứu Chung Yến Sanh lên, khiến Tiêu Văn Lan khâm phục cực kỳ.
Sau đó, vì chuyện Chung Yến Sanh rơi xuống nước suýt nữa chết đuối, Cảnh Vương bị phạt cấm túc, Chung Yến Sanh sốt cao không dứt, ngủ mê man mấy ngày mới tỉnh lại.
Một giọng nói khác đột nhiên vang lên, lạnh như băng: “Chúng ta chỉ là quan hệ hợp tác, đừng chỉ trỏ ta.”
“Hợp tác? Đừng quên ngươi là thứ gì.”
Thủ lĩnh quân phản loạn xuất hiện trong cung, hai tay chắp sau lưng, nở một nụ cười giễu cợt: “Nếu ngươi thật sự thích nó thì cứ giam nó lại làm nam sủng đi, cần gì phải giả vờ như thế? Chuyện xấu nào cũng làm mà còn muốn ra vẻ người tốt.”
Câu cuối cùng vừa dứt, người đang đứng quay lưng về phía Tiêu Văn Lan im lặng.
“Ngươi còn định diễn tới khi nào? Nếu trước khi Tiêu Lộng hồi Kinh mà chưa chiếm được Kinh thành, không có con tin, chúng ta ai cũng không sống nổi.”
Chỉ một lúc sau, Tiêu Văn Lan nghe thấy giọng nói người kia khàn khàn, lạnh lùng đáp: “Ta tự biết phải làm gì.”
“Tốt nhất ngươi nên biết rõ.”
Không biết là do lạnh hay sợ, mà răng Tiêu Văn Lan run cầm cập.
Hắn nhanh chóng nhận ra nếu hai người bên đình đi thêm vài bước nữa, chỗ của hắn sẽ bị phát hiện. Hắn vội nín thở, tay chân mềm nhũn, nhắm mắt rụt vào trong.
Vừa mới rụt mình lại được hai bước, thủ lĩnh quân phản loạn bất ngờ nhìn về phía này: “Có người!”
Một tiếng “xoẹt” vang lên, là tiếng binh khí rút ra khỏi vỏ.
Tiếng bước chân dần tiến lại gần.
Môi Tiêu Văn Lan run lên, tim đập bình bịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Hắn vội túm lấy tóc vò cho rối, bò rạp xuống đất hét toáng lên, giả vờ như vừa bị đánh thức, mắt lờ đờ ngẩng đầu, lưỡi líu lại: “Á, á á, hu hu, ta, ta vừa bị trượt chân, không dậy nổi, mau đỡ ta dậy với.”
Lúc nãy hắn vừa bị ngã, vò rượu đã vỡ nát, đổ lên hết người hắn. Vừa đến gần, mùi rượu nồng nặc lập tức xông lên, trông như một kẻ ngốc đã say bét nhè.
“…Là tên đường đệ phế vật kia của Tiêu Lộng?”
Thấy là Tiêu Văn Lan, hai người bên núi giả bỗng chốc rơi vào im lặng.
Mấy ngày nay Tiêu Văn Lan ở lại trong cung, ngoài việc hơi bị hạn chế tự do, mỗi ngày hắn đều ăn uống thỏa thích. Ba ngày hai bận lại tìm Cảnh Vương uống rượu, không hề bận tâm đến chuyện gì khác, thể hiện rõ mấy chữ phế vật ăn chơi trác táng.
Thủ lĩnh quân phản loạn vẫn chưa thu kiếm lại, dù Tiêu Văn Lan là một tên phế vật ai ai cũng biết, nhưng trong mắt y vẫn còn sát khí và nghi ngờ, đưa lưỡi đao kề sát cổ Tiêu Văn Lan.
Tiêu Văn Lan đã say đến vô tri vô giác, thấy có thứ gì đó đưa lại gần, bèn thè lưỡi liếm thử lưỡi kiếm rồi “phì” một tiếng, bất mãn kêu lên: “Không ngọt, không ngon, ta muốn ăn… quả hồng đông lạnh!”
Lông mày của thủ lĩnh quân phản loạn giật giật, lập tức ghê tởm rút kiếm về.
Tiêu Văn Lan sợ muốn chết, nửa thật nửa giả ôm lấy chân người trước mặt khóc oà lên, vừa lăn lộn khóc lóc om sòm vừa đòi ăn quả hồng đông lạnh.
Thủ lĩnh quân phản loạn bị hắn làm ồn đến mức ù tai, cảm thấy rất phiền: “Giết hắn đi, tìm cái giếng khô mà ném vào.”
Tiêu Văn Lan càng khóc lớn hơn, miệng líu ríu: “Hồng… hồng…”
Cứu mạng! Ai đó mau đến cứu hắn với!
Ca! Tẩu!
Người kia im lặng một lúc rồi nói: “Dù gì hắn cũng là người Tiêu gia, không thể bí mật xử lý như vậy được. Nếu hắn chết sẽ rất phiền phức. Dù sao hắn cũng say đến mức ngớ ngẩn, chẳng biết gì cả. Cho dù có nhớ được chút ít thì với cái tính nhát gan của hắn cũng chẳng dám nói ra.”
Lời này dường như đã thuyết phục được thủ lĩnh quân phản loạn. Một lát sau, Tiêu Văn Lan nghe thấy tiếng thu kiếm vào vỏ, rồi giọng điệu nhạt nhẽo của người kia vang lên: “Người đâu, đưa Tiêu Nhị thiếu gia trở về.”
Tiêu Văn Lan làm ầm lên một lúc, như lại say khướt rồi ngất đi, bị người ta bế lên cũng không dám mở mắt. Hắn giả vờ như đã ngủ say, mãi cho đến khi được đưa về cung tạm trú cũng không dám động đậy nửa cái.
Sau khi được thả lên giường, bác Vương tiễn người đưa Tiêu Văn Lan về xong, bèn cầm khăn nóng đến lau tay cho hắn. Ánh mắt của lão già rất tinh, vừa liếc mắt một cái đã biết hắn đang giả ngủ: “Nhị thiếu gia, sao vậy?”
Không có ai khác ở đây, Tiêu Văn Lan ngơ ngác mở mắt, môi run lên mấy lần, cổ họng như nuốt phải một cục sắt. Trong nỗi sợ hãi tột cùng, hắn há miệng một cái, nhưng cổ họng không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào.
Bác Vương vỗ nhẹ lưng hắn an ủi: “Đừng vội, có gì cứ từ từ nói.”
Tiêu Văn Lan nhận lấy khăn, lau mặt một cái mới tỉnh táo hơn chút.
Hắn rất muốn coi như mình chưa nghe hay nhìn thấy gì, tiếp tục sống những ngày tháng vô lo vô nghĩ, làm một con rùa rụt cổ.
Nhưng mà…
Sắc mặt Tiêu Văn Lan trắng bệch, cuối cùng cũng nặn ra được vài chữ từ trong kẽ răng: “Bác Vương, ta, ta phải đi gặp, tiểu Điện hạ.”
Bác Vương “Ồ” lên một tiếng, thấy hắn vẫn đang run rẩy dữ dội, lại an ủi thêm vài câu: “Được rồi, lão già này đưa ngài đi tìm tiểu Điện hạ.”
“Không, không, bây giờ không thể ra ngoài.” Đầu óc Tiêu Văn Lan chậm chạp, cố suy nghĩ một lúc rồi nói: “Buổi tối, chờ buổi tối, ta sẽ lén qua đó.”
Chung Yến Sanh ở các Văn Uyên suốt cả ngày, nghe Binh bộ Thượng thư và Hộ bộ Thượng thư cãi nhau nửa ngày trời. Buổi tối lúc rời đi, đầu óc vẫn còn ong ong.
Binh bộ Thượng thư muốn xin cấp ngân sách, Hộ bộ Thượng thư kêu khổ không có tiền, đám đại thần này đúng là đến giờ phút này vẫn còn có thể cãi nhau.
Khó trách lúc nghị sự ca ca luôn giữ bộ mặt nghiêm nghị, khiến mọi người đều phải kiêng dè, ít nói mấy lời thừa thãi.
Sau khi dặn dò Vệ Lăng đi truyền tin cho Hoắc Song, Chung Yến Sanh trở lại điện Lan Thanh. Trời đã tối, vừa bước vào sân, một bóng đen đột nhiên nhảy ra từ trong bóng tối chắn trước mặt cậu: “Tiểu Điện hạ!”
Chung Yến Sanh giật mình suýt nhảy dựng lên: “Tiêu Nhị thiếu gia? Ngươi ngồi xổm ở đây làm gì?”
Vẻ mặt Tiêu Văn Lan rất vội vàng, xông tới kéo lấy tay cậu, lắp bắp nói: “Ta, ta nhìn thấy, cũng nghe thấy!”
“Cái gì?” Chung Yến Sanh thấy hắn đổ mồ hôi đầy mặt, nhẹ nhàng vỗ vỗ tay hắn: “Ngươi từ từ nói.”
Trong đầu Tiêu Văn Lan có một đống lời muốn nói, lăn lộn trong đầu một lúc, cuối cùng tìm ra trọng điểm: “Ta thấy… thủ lĩnh quân phản loạn, cùng Cảnh…”
Chung Yến Sanh nheo mắt, vừa định ngắt lời hắn, chợt nhận ra xung quanh im lặng một cách khác thường.
Tiêu Văn Lan đang đứng đối diện cậu nghẹn lại, con ngươi phóng đại, phản chiếu hình ảnh người đứng sau lưng cậu.
Chẳng biết từ lúc nào Bùi Hoằng đã xuất hiện từ phía sau, cúi thấp người xuống, giọng nói mang theo nụ cười ôn hòa: “Tiểu Sanh, đang nói về ta sao?”
–
Tác giả: Tiêu Văn Lan cũng rất can đảm!
Chú thích 1: Người xa nơi góc trời.
Chú thích 2: Tin về lệ đã rơi.
Tất cả đến từ Baidu.
Chung Tư Độ không ở phủ Hầu gia bên cạnh cha mẹ, đến cung để làm gì?
Chung Yến Sanh ngẩn người một lúc, rồi xoa xoa đôi tai đang ù đi: “Đưa y vào đi.”
Chung Tư Độ đến mang theo một hộp đựng thức ăn.
Đêm Giao Thừa năm ngoái Chung Yến Sanh vẫn còn ở phủ Hầu gia, giờ thân phận đã khác, quay lại phủ Hầu gia cũng không hợp tình hợp lý.
Hầu phu nhân nghĩ đến Chung Yến Sanh chỉ có một mình trong cung, trong lòng không nỡ, vốn định tự mình vào cung, nhưng gần đây bà bị cảm lạnh, cuối cùng vẫn là Chung Tư Độ chủ động đứng ra.
Trong hộp đựng đồ ăn là những món ăn nhỏ Chung Yến Sanh thích, đều do đầu bếp cậu quen làm cho.
Bên trong vẫn còn nóng hổi. Lúc này Chung Yến Sanh đã rất no rồi, nhưng không nỡ phụ lòng mẹ, bèn cầm đôi đũa ngọc lên gắp thử một miếng, mỉm cười với Chung Tư Độ: “Đa tạ ngươi đã đi một chuyến, về thay ta cảm ơn mẹ.”
Không biết có phải Chung Tư Độ lo lắng về kỳ thi Hội hay không mà sắc mặt trông có hơi tiều tụy, không đáp lời Chung Yến Sanh, giọng nói cũng hơi khàn: “Ta có thấy vài binh lính tuần tra trước cổng cung.”
Chung Yến Sanh đặt đũa xuống: “Có chuyện gì sao? Có vài người là của Cảnh Vương Điện hạ.”
Sau khi nhận được tin thắng lớn ở Mạc Bắc, Chung Yến Sanh vui mừng khôn xiết, nhưng đoán rằng quân phản loạn có lẽ sẽ sớm phát động tổng tấn công, nên đã điều những binh lính cuối cùng trong cung ra tiền tuyến, chỉ giữ lại một đội Hắc Giáp Vệ nhỏ bên cạnh.
Cậu phải bảo vệ không chỉ là hoàng cung mà còn là cả Kinh thành.
Nhưng trong cung rộng lớn như vậy, chỉ với vài chục Hắc Giáp Vệ thì làm sao có thể canh giữ nổi. Cung điện vắng ngắt, lỡ như có thích khách lẻn vào cũng không ai hay biết. Bùi Hoằng đã đề nghị với Chung Yến Sanh để cận vệ của hắn ta canh giữ cổng cung.
Từ khi Cảnh Vương đến Kinh thành, hắn ta đã nhượng lại binh quyền, an phận ở lại trong cung, không hề can thiệp vào cận vệ của bản thân hay việc triều chính, những người trong triều lúc đầu nghi ngờ Cảnh Vương cũng dần buông lỏng cảnh giác.
So với những người mà lão Hoàng đế để lại, Chung Yến Sanh tin tưởng Bùi Hoằng hơn.
Chung Tư Độ lại im lặng hồi lâu, nhìn chằm chằm vào Chung Yến Sanh, môi mấp máy, bỗng nói: “Ngươi có biết, ta đã biết về thân phận của mình từ khi nào không?”
Chung Yến Sanh ngẩn ra, không khỏi ngồi thẳng lên: “Từ… khi nào?”
Chung Tư Độ hơi nhíu mày, nhưng không trả lời thẳng mà kể lại một vài chuyện xưa.
Năm đó, ám vệ bế Chung Tư Độ đi đã bị thương nặng, không kịp đưa y đến tay người của phủ Hoài An Hầu sắp xếp.
Người nông dân nhận nuôi Chung Tư Độ không hảo tâm như vậy. Từ nhỏ y đã thiếu ăn thiếu mặc, khó khăn lắm mới không bị chết đói, khi lớn hơn một chút thì phải giúp việc cho nhà nông, tay chân chậm chạp hay ăn nhiều một miếng cũng bị đánh. Người nông dân ấy thường chửi bới y là “Đồ con hoang bị cha mẹ bỏ rơi, nếu không có ông đây thì mày đã bị sói tha đi ăn thịt rồi.”
Mãi đến năm Chung Tư Độ mười tuổi, khu vực đó bùng phát nạn đói, người nông dân tính đổi Chung Tư Độ đi lấy lương thực.
Chung Yến Sanh trợn tròn mắt, Chung Tư Độ chưa bao giờ kể những điều này với ai. Khi nhắc đến chuyện hồi nhỏ, y chỉ nở một nụ cười hoàn mỹ nói rằng “Cha nuôi ta mất khi ta mười tuổi.”
“Ngươi có biết ông ta chết thế nào không?”
Tim Chung Yến Sanh nặng trĩu, gần như sắp không thở được: “Chết… như thế nào?”
Giọng điệu của Chung Tư Độ rất nhẹ nhàng: “Ta thường đến giúp việc cho thầy lang trong làng, trộm được một ít thuốc.”
Y bôi thuốc lên một nửa chiếc bánh bao khó khăn lắm mới xin được, khéo léo đưa cho người nông dân đã đói sắp mất trí.
Sau khi lục lọi được một chút đồ dùng có thể sử dụng, y lặng lẽ rời đi.
Lúc đó có rất nhiều người chết đói, đương nhiên sẽ không ai để ý.
Tim Chung Yến Sanh đập thình thịch, sống lưng lạnh toát, mồ hôi túa ra, cổ họng hơi nghẹn lại: “Ngươi…”
“Ta đã đi rất xa, không biết đã đến được nơi nào, trở thành một kẻ ăn mày, thường xuyên nằm bò bên ngoài một tư thục để nghe lén. Những gì ông ta dạy, ta chỉ cần nghe một lần là nhớ, còn có thể học một hiểu ba. Thấy ta có thiên phú học hành, ông ta bèn nhận ta làm con nuôi, để ta viết thơ làm văn dưới danh nghĩa của ông ta.”
“Sau đó ta lén đi thi viện thí, đỗ đầu bảng, gặp được một người.”
Chung Tư Độ thật sự rất giống vợ chồng Hoài An Hầu, chỉ cần là người đã gặp vợ chồng Hoài An Hầu đều có thể nhận ra thân phận của y, huống chi còn có tín vật của phủ Hầu gia làm chứng.
Từ người đó, Chung Tư Độ đã biết thêm nhiều điều.
Khi biết được thân thế của mình, Chung Tư Độ không mấy vui mừng, mà nhiều hơn là bàng hoàng, phẫn nộ và căm hận.
Sau đó y lặn lội ngàn dặm đến Kinh thành tìm người thân, lại bị sắp xếp ở biệt viện ngoài Kinh thành, không thể đường đường chính chính trở về phủ Hầu gia, nhận lại cha mẹ, khôi phục thân phận của mình.
Giọng Chung Tư Độ nhẹ nhàng, mang theo sự ôn hòa như mọi khi: “Bây giờ ngươi biết tại sao khi vừa trở về phủ Hầu gia, ta lại ghét ngươi như vậy rồi chứ? Ngươi quả thật vô tội, nhưng ta hận ngươi… có sai không?”
Giọng Chung Yến Sanh nghẹn ngào, hốc mắt hơi đỏ: “Không có… xin lỗi.”
“Ngươi không cần cảm thấy áy náy.” Giọng Chung Tư Độ rất thấp: “Ta chỉ là…”
Chỉ là gì, Chung Tư Độ lại không nói tiếp. Trong lòng Chung Yến Sanh vừa nặng nề vừa đau khổ, cũng không đành lòng truy hỏi nữa.
Trong phòng im lặng hồi lâu, Chung Tư Độ mới lên tiếng: “Cảnh Vương Điện hạ còn ở trong cung, ta không tiện ở lại lâu. Ngươi ở trong cung cũng không thể cùng đón Tết Nguyên Tiêu. Mẹ đã nấu bánh trôi nước, nhớ ăn một ít, ta đi trước.”
Câu sau của y không liên quan gì đến câu trước. Chung Yến Sanh vẫn còn chìm trong cảm xúc nặng nề vừa rồi, đột nhiên nghe thấy hai câu này, ngơ ngác ngẩng đầu nhìn theo động tác của y, nhỏ giọng hỏi: “Chung Tư Độ, trong lòng ngươi, thật ra vẫn rất ghét ta phải không?”
“… Có lẽ vậy.”
Chung Tư Độ khoác thêm áo choàng, đẩy cửa rời đi.
Bên ngoài tuyết lại rơi, tiếng tuyết rơi lách tách khiến cung điện càng thêm tịch mịch.
Chung Yến Sanh ngồi trước bàn, một lúc lâu sau mới cầm hộp thức ăn có bánh trôi nước hơi nguội lên, định ăn một miếng.
Khi nhấc bát lên, ngón tay chạm phải thứ gì đó ở đáy bát.
Chung Yến Sanh nâng bát lên cao hơn một chút, phát hiện một tờ giấy gấp vuông vức được dán ở đáy bát.
Là do Chung Tư Độ lén đặt dưới bát sao? Lúc nãy y còn nhắc cậu đêm Nguyên Tiêu nhớ ăn bánh trôi nước.
Tại sao ở trong cung mà Chung Tư Độ lại phải cẩn thận như vậy, sợ ai nghe thấy?
Chung Yến Sanh ngẩn người, nhịp tim vô thức đập nhanh hơn, cẩn thận lấy tờ giấy đó xuống mở ra xem.
Có lẽ vì sợ lính canh trong cung kiểm tra hộp thức ăn bị phát hiện, nên trên tờ giấy chỉ viết hai câu thơ: “Người xa nơi góc trời, tin về lệ đã rơi.”
Ngoài việc ăn bánh trôi, đêm Nguyên Tiêu còn có một ý nghĩa khác.
Chung Yến Sanh nhìn chằm chằm vào hai câu thơ đó, ngây người một lúc lâu mới hơi tái mặt, run tay đưa tờ giấy đến gần ngọn nến, đốt cháy tờ giấy đó.
Ngay sau đó cậu nhanh chóng viết hai bức mật thư, gọi Vệ Lăng đến đưa cho ông: “Một bức gửi đi Thái Nguyên, một bức gửi đến Mạc Bắc.”
Nhưng tình hình còn tệ hơn Chung Yến Sanh nghĩ.
Sáng sớm hôm sau, Vệ Lăng vội vã gõ cửa phòng Chung Yến Sanh.
Từ trước đến nay Vệ Lăng luôn cẩn trọng chu đáo, cũng thương yêu Chung Yến Sanh, nếu không phải chuyện cực kỳ gấp gáp, tuyệt đối sẽ không đến gọi Chung Yến Sanh dậy từ sáng sớm.
Chung Yến Sanh biết điều này, cố nén cơn buồn ngủ, xoa mắt hỏi: “Chuyện gì vậy?”
Vệ Lăng nghiêm mặt nói: “Tiểu chủ tử, bồ câu đưa thư ra khỏi Kinh thành đều bị bắn chết, trong lồng chỉ còn lại rất ít, sáng nay mấy con cuối cùng cũng chết rồi.”
Thái dương Chung Yến Sanh giật liên tục, cố nén nỗi sợ hãi hỏi: “Chết thế nào?”
“Đang cho Thái y kiểm tra.” Vệ Lăng ngừng lại một chút: “Thuộc hạ cảm thấy, có thể là do trúng độc.”
Hiện tại quân phản loạn đã phong tỏa ngoài thành, muốn phái người ra khỏi thành truyền tin gần như là không thể, nếu bồ câu cũng không thể truyền tin ra ngoài, Kinh thành thật sự sẽ rơi vào tình cảnh cô lập.
Mấy ngày nay, vì có viện quân của Cảnh Vương, Chung Yến Sanh không vội cầu viện bên phía Thái Nguyên. Hơn nữa họ vẫn còn nhận được thư tín từ Mạc Bắc, nên khó nhận ra rằng, không biết từ khi nào thư tín của họ đã bị phong tỏa trong Kinh thành, không truyền ra ngoài được nữa.
Chung Yến Sanh khoác áo ngoài, tóc tai rối bời đi đi lại lại mấy vòng, rồi mới bình tĩnh nói: “Trước tiên đừng để lộ chuyện này, nghĩ cách truyền tin ra ngoài đi.”
Vệ Lăng suy nghĩ một lúc lâu: “Tiểu chủ tử, bây giờ có lẽ vẫn còn một cách để truyền tin ra ngoài.”
Mắt Chung Yến Sanh sáng lên: “Cách gì?”
“Thuộc hạ cũng không chắc là thật hay giả.” Vệ Lăng do dự nói: “Nghe nói năm đó khi Thái Tổ công chiếm Kinh thành, xây lại hoàng cung, đã ra lệnh cho người xây một đường hầm bí mật dưới lòng đất, nối từ trong cung ra ngoài thành, để lại cho con cháu đời sau phòng khi bất trắc. Nhưng chỉ khi Trữ quân chính thức đăng cơ mới có thể nhận được bản đồ của đường hầm đó.”
Năm đó khi Thái tử tiền nhiệm mưu phản, họ không thể tìm thấy cái gọi là đường hầm bí mật này.
Nếu như khi đó có thể tìm ra đường hầm này… có lẽ Thái tử phi đã được cứu.
Chung Yến Sanh vừa mới ngủ dậy, ngáp dài mấy tiếng, mơ màng suy nghĩ, một lúc sau mới gật đầu: “Không có lửa làm sao có khói, chưa chắc đã là giả, ngươi phái người hành động cẩn thận, điều tra khắp cung một lượt.”
“Vâng!”
“Mang nước nóng đến, ta rửa mặt rồi đến điện Dưỡng Tâm.”
Chung Yến Sanh cũng không mong chờ sẽ nghe ngóng được gì từ lão Hoàng đế. Dù lão già đó giờ đây đã rơi vào tình cảnh thảm hại, cả người dơ bẩn, bị Ô Hương hành hạ, nhưng miệng lưỡi chẳng được mấy câu thành thật.
Dù sao, đây cũng là người đã ngồi vững trên ngai vàng mấy chục năm. Chung Yến Sanh dù căm ghét lão, nhưng cũng phải thừa nhận rằng tâm tính của lão già đó thật sự không phải hạng người thường có thể so bì.
Khi đến điện Dưỡng Tâm, Chung Yến Sanh còn chưa bước vào đã nhìn thấy hai người.
Là Điền Hỉ và Bùi Hoằng. Điền Hỉ đang cúi đầu thật thấp, không biết đang nói gì, còn Bùi Hoằng có lẽ còn đang say rượu chưa tỉnh, vẻ mặt vẫn lạnh băng như tối qua.
Nghe thấy tiếng bước chân, Bùi Hoằng quay đầu lại. Nhìn thấy là Chung Yến Sanh, hắn ta mới nở nụ cười quen thuộc, phe phẩy cái quạt trêu chọc: “Tiểu Sanh, người bận rộn như ngươi sao lại có thời gian đến đây?”
Chung Yến Sanh dừng bước, liếc nhìn Điền Hỉ đang cúi đầu im lặng, rồi mỉm cười với Bùi Hoằng: “Hôm nay là mùng một, ta đến thăm hỏi Bệ hạ.”
“Trùng hợp ghê, ta cũng đến đây để hiếu kính.” Bùi Hoằng nhún vai: “Tiếc là Bệ hạ vẫn chưa tỉnh. Ngươi muốn thử nhét tuyết vào cổ áo lão ta xem có tỉnh không? Hay châm lửa trên đầu lão thử?”
Chung Yến Sanh: “…Cảnh Vương Điện hạ, có phải như vậy hơi thất đức không?”
Điền Hỉ cũng lau mồ hôi không ngừng.
Bùi Hoằng cười ha hả, gập quạt lại, mỉm cười: “Không sao, lão đáng bị thế.”
Chung Yến Sanh không tự chủ được lùi lại một bước, nhỏ giọng nói: “Thôi, mới đầu năm, cũng không phải chuyện gì gấp gáp, ta không làm chuyện này đâu.”
Đang nói, Vệ Lăng bước vào từ bên ngoài, cúi đầu hành lễ: “Tiểu chủ tử, quân phản loạn ngoài thành có hành động khác thường, mấy vị các lão và Binh bộ Thượng thư cầu kiến.”
Vệ Lăng đến thật đúng lúc, Chung Yến Sanh lại lùi một bước, đối diện với ánh mắt sâu thẳm của Bùi Hoằng, duy trì giọng điệu mềm mại: “Cảnh Vương Điện hạ, ta còn có việc, đi trước.”
Bùi Hoằng bỗng dưng tiến lên hai bước, đưa tay chạm nhẹ vào khuôn mặt gầy gò của cậu, thở dài: “Lại gầy đi nhiều rồi.”
Đầu ngón tay của hắn ta lạnh buốt, cảm giác khác hoàn toàn ngón tay có vết chai mỏng của Tiêu Lộng. Khi Tiêu Lộng dịu dàng vuốt ve tóc và gò má Chung Yến Sanh, cậu luôn cảm thấy rất an toàn.
Nghĩ đến Tiêu Lộng, hàng mi của Chung Yến Sanh khẽ run rẩy, hốc mắt dường như lại trở nên ướt át, chóp mũi cay cay. Đôi mắt đen trước đây luôn tràn đầy tình cảm giờ lại ngấn nước, ánh lên một lớp lệ mỏng manh.
Vẻ đáng thương này cực kỳ khiến người ta trìu mến, Bùi Hoằng rút tay lại, giọng trầm ấm: “Tiểu Sanh nên được người khác bảo vệ thật tốt trong vàng son nhung lụa, không nên để tổn hại sức khỏe đến vậy.”
Chung Yến Sanh chớp mắt mấy cái để loại bỏ cảm giác ướt át, nghiêm túc nói: “Cảnh Vương Điện hạ, chính vì ta sinh ra trong nhung lụa, nên khi gặp hoạn nạn càng phải thực hiện chức trách của mình.”
Bùi Hoằng ngừng lại, rồi cười một tiếng: “Nói đúng lắm. Ta không giữ ngươi lại nữa, mau đi đi, Tiểu Sanh.”
Không ngoài dự đoán của Chung Yến Sanh, tin thắng trận từ Mạc Bắc lại được truyền về. Trong Kinh thành ai nấy đều mừng rỡ, nhưng đối với quân phản loạn mà nói, đây chắc chắn là một tin xấu, thời gian trở nên gấp rút hơn.
Chưa đầy hai ngày, Hoắc Song lại báo về rằng không tìm thấy An Vương trong quân phản loạn, nhưng quả nhiên quân phản loạn đã có hành động, phát động cuộc tấn công mạnh mẽ vào Kinh thành. Nếu không có cận vệ của Cảnh Vương, e rằng quân địch đã bao vây sát tường thành rồi.
Vào ngày mùng sáu, Kinh thành hiếm khi có một hôm trời quang.
Tiêu Văn Lan xách theo một vò rượu ngon, hào hứng đi tìm Bùi Hoằng uống rượu.
Khoảng thời gian này Bùi Hoằng tự do ra vào cung điện, hắn ta ở một cung mà trước đây từng có thời gian ở lại. Từ nhỏ Tiêu Văn Lan thường xuyên vào cung, lại hay đến tìm Bùi Hoằng chơi, nên rất quen thuộc với các ngõ ngách, đi đường tắt từ cửa sau vào trong điện, đến đình hồ nơi thường uống rượu với Bùi Hoằng.
Trong cung của Cảnh Vương dường như không có người, cũng chẳng ai dọn tuyết trên đường. Tuyết tích tụ đã mấy ngày, hôm nay trời lại nắng nên đường đi rất trơn.
Tiêu Văn Lan đi không nhìn đường, bất ngờ trượt chân ngã một cú đau điếng, vò rượu trong tay cũng vỡ tan, đổ hết lên người, mùi rượu nồng nặc xộc vào mũi.
Hắn ngã mạnh đến hoa cả mắt, rên rỉ một hồi lâu. Khi ngẩng đầu lên, hắn mới phát hiện ngọc bội đeo trên người đã bị văng ra ngoài, trượt dài trên mặt hồ đóng băng, cuối cùng dừng lại sau núi giả.
Miếng ngọc bội này Tiêu Văn Lan đã mua với giá mấy vạn lượng bạc.
Thấy mấy vạn lượng bạc bay đi, Tiêu Văn Lan cũng không kịp bò dậy, nhịn đau dùng ba chân bốn cẳng bò qua, nhanh chóng vồ lấy miếng ngọc bảo bối. Hắn cẩn thận ngắm nghía, thấy không có vết nứt nào mới thở phào, hí hửng hôn chóc chóc mấy cái.
Cơ thể thật sự rất đau đớn, Tiêu Văn Lan nhe răng trợn mắt. Hắn ngồi nghỉ ngơi một lúc, vừa định vịn vào núi giả để đứng dậy thì nghe thấy tiếng nói chuyện ở xa.
Hắn thầm vui mừng, vừa định gọi người tới đỡ mình một tay thì nghe thấy một câu: “Ngươi đã kéo dài quá lâu rồi, chẳng lẽ đã mềm lòng?”
Giọng nói này có hơi xa lạ, nhưng nội dung lại khiến Tiêu Văn Lan bối rối, theo bản năng ngậm miệng lại, không kêu lên.
Ngay sau đó hắn nghe thấy một giọng nói khác quen thuộc hơn, so với bình thường, nó có hơi trầm thấp: “Không có.”
Tim Tiêu Văn Lan bỗng dưng đập thình thịch. Hắn ngẩng đầu lên, lén quan sát từ phía sau núi giả, vừa nhìn rõ người đi tới là ai thì hai mắt trợn to.
Mấy ngày trước, hắn đã thấy người này trong bức chân dung mà Chung Yến Sanh vẽ trong thư phòng.
Hôm đó Chung Yến Sanh đã nói với hắn người này là thủ lĩnh của quân phản loạn.
Tại sao thủ lĩnh quân phản loạn lại xuất hiện trong cung?!
Tiêu Văn Lan theo bản năng cảm thấy mình đã từng gặp người này, nhưng lúc này hắn đã căng thẳng đến cực điểm. Đầu óc vang lên ong ong, mồ hôi tuôn ra như mưa, tâm trí trống rỗng, hoàn toàn không thể nhớ ra đây là ai, đã gặp ở đâu. Hắn chỉ biết đưa tay bịt chặt miệng lại, không dám phát ra dù chỉ một tiếng.
Hắn hận không thể lập tức bất tỉnh, tránh cho nghe phải bí mật gì đó rồi bị phát hiện diệt khẩu.
Một lúc sau, hắn trơ mắt nhìn hai người kia đi về phía đình bên hồ, tiếng nói chuyện càng lúc càng rõ ràng.
“Quả nhiên ngươi đã mềm lòng. Hừ, chẳng được tích sự gì, nếu ngươi tàn nhẫn hơn một chút, lần đó ở vườn Thấm Tâm đã có thể giải quyết phiền phức này rồi, cũng không để phát sinh nhiều chuyện như vậy.”
Rõ ràng đang là mùa đông, nếu buổi tối không đốt lò sưởi thì chăn cũng lạnh cóng, nhưng sau lưng Tiêu Văn Lan lại toát mồ hôi không ngừng.
Vườn, vườn Thấm Tâm.
Hắn nhớ, ngày đó Chung Yến Sanh vừa theo vợ chồng Hoài An Hầu về Kinh, Cảnh Vương đã gọi nhóm bọn họ cùng đi dạo chơi với Chung Yến Sanh.
Đám công tử chỉ biết ăn chơi vô tích sự kia đến nơi cũng chỉ lo ăn uống chè chén. Sau đó tất cả đều say khướt, không ai để ý tại sao Chung Yến Sanh lại rơi xuống hồ.
Trong đám người đó chẳng mấy ai biết bơi, những người biết bơi thì đã say bét nhè, cho dù có tỉnh táo cũng chẳng dám mạo hiểm nhảy xuống hồ nước lạnh đầu xuân để cứu người. Cứ do dự như vậy một lúc, Chung Yến Sanh suýt chết đuối trong hồ.
Cuối cùng vẫn là Cảnh Vương Điện hạ bất chấp nguy hiểm nhảy xuống nước cứu Chung Yến Sanh lên, khiến Tiêu Văn Lan khâm phục cực kỳ.
Sau đó, vì chuyện Chung Yến Sanh rơi xuống nước suýt nữa chết đuối, Cảnh Vương bị phạt cấm túc, Chung Yến Sanh sốt cao không dứt, ngủ mê man mấy ngày mới tỉnh lại.
Một giọng nói khác đột nhiên vang lên, lạnh như băng: “Chúng ta chỉ là quan hệ hợp tác, đừng chỉ trỏ ta.”
“Hợp tác? Đừng quên ngươi là thứ gì.”
Thủ lĩnh quân phản loạn xuất hiện trong cung, hai tay chắp sau lưng, nở một nụ cười giễu cợt: “Nếu ngươi thật sự thích nó thì cứ giam nó lại làm nam sủng đi, cần gì phải giả vờ như thế? Chuyện xấu nào cũng làm mà còn muốn ra vẻ người tốt.”
Câu cuối cùng vừa dứt, người đang đứng quay lưng về phía Tiêu Văn Lan im lặng.
“Ngươi còn định diễn tới khi nào? Nếu trước khi Tiêu Lộng hồi Kinh mà chưa chiếm được Kinh thành, không có con tin, chúng ta ai cũng không sống nổi.”
Chỉ một lúc sau, Tiêu Văn Lan nghe thấy giọng nói người kia khàn khàn, lạnh lùng đáp: “Ta tự biết phải làm gì.”
“Tốt nhất ngươi nên biết rõ.”
Không biết là do lạnh hay sợ, mà răng Tiêu Văn Lan run cầm cập.
Hắn nhanh chóng nhận ra nếu hai người bên đình đi thêm vài bước nữa, chỗ của hắn sẽ bị phát hiện. Hắn vội nín thở, tay chân mềm nhũn, nhắm mắt rụt vào trong.
Vừa mới rụt mình lại được hai bước, thủ lĩnh quân phản loạn bất ngờ nhìn về phía này: “Có người!”
Một tiếng “xoẹt” vang lên, là tiếng binh khí rút ra khỏi vỏ.
Tiếng bước chân dần tiến lại gần.
Môi Tiêu Văn Lan run lên, tim đập bình bịch như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực. Hắn vội túm lấy tóc vò cho rối, bò rạp xuống đất hét toáng lên, giả vờ như vừa bị đánh thức, mắt lờ đờ ngẩng đầu, lưỡi líu lại: “Á, á á, hu hu, ta, ta vừa bị trượt chân, không dậy nổi, mau đỡ ta dậy với.”
Lúc nãy hắn vừa bị ngã, vò rượu đã vỡ nát, đổ lên hết người hắn. Vừa đến gần, mùi rượu nồng nặc lập tức xông lên, trông như một kẻ ngốc đã say bét nhè.
“…Là tên đường đệ phế vật kia của Tiêu Lộng?”
Thấy là Tiêu Văn Lan, hai người bên núi giả bỗng chốc rơi vào im lặng.
Mấy ngày nay Tiêu Văn Lan ở lại trong cung, ngoài việc hơi bị hạn chế tự do, mỗi ngày hắn đều ăn uống thỏa thích. Ba ngày hai bận lại tìm Cảnh Vương uống rượu, không hề bận tâm đến chuyện gì khác, thể hiện rõ mấy chữ phế vật ăn chơi trác táng.
Thủ lĩnh quân phản loạn vẫn chưa thu kiếm lại, dù Tiêu Văn Lan là một tên phế vật ai ai cũng biết, nhưng trong mắt y vẫn còn sát khí và nghi ngờ, đưa lưỡi đao kề sát cổ Tiêu Văn Lan.
Tiêu Văn Lan đã say đến vô tri vô giác, thấy có thứ gì đó đưa lại gần, bèn thè lưỡi liếm thử lưỡi kiếm rồi “phì” một tiếng, bất mãn kêu lên: “Không ngọt, không ngon, ta muốn ăn… quả hồng đông lạnh!”
Lông mày của thủ lĩnh quân phản loạn giật giật, lập tức ghê tởm rút kiếm về.
Tiêu Văn Lan sợ muốn chết, nửa thật nửa giả ôm lấy chân người trước mặt khóc oà lên, vừa lăn lộn khóc lóc om sòm vừa đòi ăn quả hồng đông lạnh.
Thủ lĩnh quân phản loạn bị hắn làm ồn đến mức ù tai, cảm thấy rất phiền: “Giết hắn đi, tìm cái giếng khô mà ném vào.”
Tiêu Văn Lan càng khóc lớn hơn, miệng líu ríu: “Hồng… hồng…”
Cứu mạng! Ai đó mau đến cứu hắn với!
Ca! Tẩu!
Người kia im lặng một lúc rồi nói: “Dù gì hắn cũng là người Tiêu gia, không thể bí mật xử lý như vậy được. Nếu hắn chết sẽ rất phiền phức. Dù sao hắn cũng say đến mức ngớ ngẩn, chẳng biết gì cả. Cho dù có nhớ được chút ít thì với cái tính nhát gan của hắn cũng chẳng dám nói ra.”
Lời này dường như đã thuyết phục được thủ lĩnh quân phản loạn. Một lát sau, Tiêu Văn Lan nghe thấy tiếng thu kiếm vào vỏ, rồi giọng điệu nhạt nhẽo của người kia vang lên: “Người đâu, đưa Tiêu Nhị thiếu gia trở về.”
Tiêu Văn Lan làm ầm lên một lúc, như lại say khướt rồi ngất đi, bị người ta bế lên cũng không dám mở mắt. Hắn giả vờ như đã ngủ say, mãi cho đến khi được đưa về cung tạm trú cũng không dám động đậy nửa cái.
Sau khi được thả lên giường, bác Vương tiễn người đưa Tiêu Văn Lan về xong, bèn cầm khăn nóng đến lau tay cho hắn. Ánh mắt của lão già rất tinh, vừa liếc mắt một cái đã biết hắn đang giả ngủ: “Nhị thiếu gia, sao vậy?”
Không có ai khác ở đây, Tiêu Văn Lan ngơ ngác mở mắt, môi run lên mấy lần, cổ họng như nuốt phải một cục sắt. Trong nỗi sợ hãi tột cùng, hắn há miệng một cái, nhưng cổ họng không thể phát ra bất kỳ âm thanh nào.
Bác Vương vỗ nhẹ lưng hắn an ủi: “Đừng vội, có gì cứ từ từ nói.”
Tiêu Văn Lan nhận lấy khăn, lau mặt một cái mới tỉnh táo hơn chút.
Hắn rất muốn coi như mình chưa nghe hay nhìn thấy gì, tiếp tục sống những ngày tháng vô lo vô nghĩ, làm một con rùa rụt cổ.
Nhưng mà…
Sắc mặt Tiêu Văn Lan trắng bệch, cuối cùng cũng nặn ra được vài chữ từ trong kẽ răng: “Bác Vương, ta, ta phải đi gặp, tiểu Điện hạ.”
Bác Vương “Ồ” lên một tiếng, thấy hắn vẫn đang run rẩy dữ dội, lại an ủi thêm vài câu: “Được rồi, lão già này đưa ngài đi tìm tiểu Điện hạ.”
“Không, không, bây giờ không thể ra ngoài.” Đầu óc Tiêu Văn Lan chậm chạp, cố suy nghĩ một lúc rồi nói: “Buổi tối, chờ buổi tối, ta sẽ lén qua đó.”
Chung Yến Sanh ở các Văn Uyên suốt cả ngày, nghe Binh bộ Thượng thư và Hộ bộ Thượng thư cãi nhau nửa ngày trời. Buổi tối lúc rời đi, đầu óc vẫn còn ong ong.
Binh bộ Thượng thư muốn xin cấp ngân sách, Hộ bộ Thượng thư kêu khổ không có tiền, đám đại thần này đúng là đến giờ phút này vẫn còn có thể cãi nhau.
Khó trách lúc nghị sự ca ca luôn giữ bộ mặt nghiêm nghị, khiến mọi người đều phải kiêng dè, ít nói mấy lời thừa thãi.
Sau khi dặn dò Vệ Lăng đi truyền tin cho Hoắc Song, Chung Yến Sanh trở lại điện Lan Thanh. Trời đã tối, vừa bước vào sân, một bóng đen đột nhiên nhảy ra từ trong bóng tối chắn trước mặt cậu: “Tiểu Điện hạ!”
Chung Yến Sanh giật mình suýt nhảy dựng lên: “Tiêu Nhị thiếu gia? Ngươi ngồi xổm ở đây làm gì?”
Vẻ mặt Tiêu Văn Lan rất vội vàng, xông tới kéo lấy tay cậu, lắp bắp nói: “Ta, ta nhìn thấy, cũng nghe thấy!”
“Cái gì?” Chung Yến Sanh thấy hắn đổ mồ hôi đầy mặt, nhẹ nhàng vỗ vỗ tay hắn: “Ngươi từ từ nói.”
Trong đầu Tiêu Văn Lan có một đống lời muốn nói, lăn lộn trong đầu một lúc, cuối cùng tìm ra trọng điểm: “Ta thấy… thủ lĩnh quân phản loạn, cùng Cảnh…”
Chung Yến Sanh nheo mắt, vừa định ngắt lời hắn, chợt nhận ra xung quanh im lặng một cách khác thường.
Tiêu Văn Lan đang đứng đối diện cậu nghẹn lại, con ngươi phóng đại, phản chiếu hình ảnh người đứng sau lưng cậu.
Chẳng biết từ lúc nào Bùi Hoằng đã xuất hiện từ phía sau, cúi thấp người xuống, giọng nói mang theo nụ cười ôn hòa: “Tiểu Sanh, đang nói về ta sao?”
–
Tác giả: Tiêu Văn Lan cũng rất can đảm!
Chú thích 1: Người xa nơi góc trời.
Chú thích 2: Tin về lệ đã rơi.
Tất cả đến từ Baidu.