Phi Hoàng Dẫn - Tử Vi Lưu Niên
Chương 102: Thế thượng phong
Thành trì hùng mạnh ở vùng Hà Tây không chỉ có Sa Châu mà còn có Cam Châu, nơi ở của gia tộc Bùi thị.
Phía Nam của Cam Châu tựa lưng vào dãy núi Kỳ Liên cao ngất, ở giữa là bình nguyên rộng lớn với những dòng sông uốn lượn chảy qua, thảo nguyên xanh tươi có ngựa hoang chạy nhảy tung vó, đầm lầy là chốn chim nước chao liệng, phong cảnh ngày xuân đầu hạ chẳng khác nào vùng Giang Nam trữ tình, nơi đây có đất đai màu mỡ hiếm thấy ở vùng biên ải, thích hợp để canh tác, từ đó nuôi dưỡng được đội quân tinh nhuệ và thiện chiến – Nhuệ Kim quân.
Là nhân vật quan trọng nhất trên đất Cam Châu, gia chủ họ Bùi Bùi Hựu Tĩnh đã lâu không xuất hiện.
Cách thành Cam Châu hơn trăm dặm, dưới chân núi tuyết trắng xóa có một ngôi chùa phong cảnh hữu tình. Trên vách núi cheo leo tạc ra những hang động sâu hẹp, nối liền nhau bởi những con đường chênh vênh. Các tăng nhân thành kính trong chùa ngồi thiền, nghiên cứu kinh thư, sống ẩn dật khổ tu.
Gió trời thổi vi vu, hương trầm đưa thoang thoảng, một lão tăng đang giảng kinh cho những người lắng nghe trong động, bỗng ngoài cửa động có tiếng ồn ào.
Một người đàn ông lực lưỡng không màng sự ngăn cản của các tăng nhân, xông thẳng vào quát lớn, “Ngũ đệ, chuyện của Bùi gia đệ cứ thế mặc kệ hay sao!”
Lão tăng bị cắt ngang cũng không nổi giận, chắp tay hành lễ với người vừa đến rồi đứng dậy lánh sang động khác, để người nghe ở lại một mình.
Bùi Hựu Tĩnh bận áo vải trắng, hai bên tóc mai đã điểm bạc, tay cầm chuỗi Phật ngọc ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, thần sắc tĩnh tại, “Đại ca, mọi việc trong tộc đều do Tứ ca quyết định, hà tất đến tận đây làm phiền ta.”
Người đến chính là huynh trưởng Bùi An Dân, nếu không phải tình thế cấp bách thì ông ta cũng chẳng muốn đến. Dằn lại cơn bực tức, ông ta trầm giọng nói, “Tam đệ ở thành Thiên Đức đã bị Lục Cửu lang giam vào đại lao rồi!”
Bàn tay đang lần chuỗi hạt của Bùi Hựu Tĩnh bỗng khựng lại, ánh mắt trở nên sắc bén.
Bùi An Dân kể lại đầu đuôi câu chuyện, căm giận nói, “Thằng chó đó ban đầu giả vờ tử tế, đồng ý hòa giải, nhưng khi Tam đệ vừa đến liền bắt giam người, còn tịch thu sạch sẽ trong ngoài phủ đệ, toàn bộ gia quyến đều bị giam giữ, trọng binh canh phòng nghiêm ngặt, đòi Hàn Thất tướng quân phải đích thân đến thương lượng!”
Bùi Hựu Tĩnh nhíu mày, “Còn Ngụy Hoằng đâu? Những năm qua hắn nhận biết bao nhiêu bạc, lẽ nào ngồi yên?”
Bùi An Dân tức tối đáp, “Ngụy Hoằng không dám ra mặt, nói họ Lục vừa độc ác vừa nham hiểm, là một con chó điên, gần đây một loạt quan viên đều bị nó tịch biên. Các cơ sở của chúng ta trong thành không còn lại bao nhiêu, muốn cướp ngục cũng không nổi, chỉ sợ nó hạ độc thủ với Tam đệ.”
Bùi Hựu Tĩnh đã lâu không can dự vào việc nhà, ông đọc qua sổ tin tức mà Đại ca mang đến, đặc biệt xem kỹ những diễn biến ở Trường An. Một lúc lâu sau, ông ta cười khẩy, hai má hiện lên nếp nhăn sâu, “Nó không điên, nó bắt Tam ca một là vì hận cũ, hai là vì nó vẫn còn nhòm ngó con bé Hàn gia, nó muốn chúng ta đưa người đến cho nó. Đã có ý định như vậy, chắc chắn sẽ không nặng tay, tạm thời Tam ca không nguy hiểm đến tính mạng.”
Bùi An Dân tạm yên tâm, nhưng lại dấy lên nghi ngờ, “Có khi nào là Hàn gia mưu đồ hợp tác, ép chúng ta phải cúi đầu trước họ?”
Từ khi Bùi Hựu Tĩnh lui về ở ẩn, trên danh nghĩa Cam Châu vẫn thuộc quyền quản lý của Tiết độ sứ Hà Tây nhưng thực tế đã đoạn tuyệt liên hệ, gần như tự trị.
Bùi Hựu Tĩnh liếc nhìn huynh trưởng, “Hàn gia không dùng thủ đoạn này. Hơn nữa Thất a đầu đang nắm quyền chỉ huy Xích Hỏa quân, không dễ gì rời khỏi Sa Châu, tiểu Hàn đại nhân cũng không cho phép, chính vì thế nên Lục Cửu lang mới bày ra kế hiểm này. Mối hận giữa nó và Bùi gia quá sâu, nhẽ ra Tam ca không nên tới.”
Bùi An Dân cũng hiểu mình đã mắc mưu, căm hận nói, “Cái tên khốn đó vừa đến thành Thiên Đức đã chặn đoàn thương buôn của chúng ta vào Trung Nguyên, tương lai chắc chắn sẽ gặp phiền phức. Tam đệ chỉ muốn hòa giải, liệu có thể nhờ Tiết độ sứ Sóc Phương ra mặt, đưa người về được không?”
Bùi Hựu Tĩnh dập tắt suy nghĩ đó của ông ta, “Lục Cửu lang chưa đạt được mục đích, tất sẽ không nể mặt ai. Hơn nữa ta có nắm được nhược điểm gì của nó? Giam giữ một phú thương không phải là đại tội, không thể viết sớ tố cáo, đành mời Hàn gia ra mặt vậy.”
Bùi An Dân vẫn không cam tâm, muốn nói lại thôi.
Bùi Hựu Tĩnh hiểu rõ suy nghĩ của huynh trưởng, nhẹ nhàng nói, “Ta biết các huynh cảm thấy Hàn gia hiện tại không bằng trước, không muốn cúi đầu trước bọn họ, nhưng sự việc đã đến nước này, không tránh được đâu.”
Bùi An Dân đành nói thẳng, “Ngũ đệ, từ sau khi Nhị đệ và Hành Ngạn qua đời, đệ không còn xử lý công việc, nhưng chuyện của gia tộc đệ không thể bỏ mặc.”
Bùi Hựu Tĩnh lặng nhìn khói hương mờ ảo, vầng trán nhuốm màu u ám của muôn vàn lo âu.
Bùi An Dân thở dài nói, “Hành Ngạn khi còn sống rất kính trọng đệ, nếu nó có linh thiêng, chắc chắn không muốn thấy đệ trở nên sa sút thế này.”
Bùi Hựu Tĩnh im lặng hồi lâu, “Nhưng ta không phải là một người cha tốt, ta quá nghiêm khắc với nó. Trong trận chiến hai năm trước, ta đã bảo nó phải hành động như một nam nhi, đừng để Bùi gia mất mặt, thế là nó thực sự không rút lui.”
Trận chiến năm ấy nhà họ Hàn không thể đến ứng cứu kịp thời, Nhuệ Kim quân phải gian nan độc chiến, thương vong nặng nề, Bùi Hành Ngạn lại gặp phải Địch Ngân, đâu địch nổi dũng sĩ số một của quân Phồn? Công chúa Cao Xương đau buồn tột độ, chẳng bao lâu cũng theo con trai về nơi chín suối, Bùi Hựu Tĩnh ngày thường luôn trách mắng con trai không nên thân, nhưng sau khi trải qua bi kịch mất anh, mất con rồi lại mất vợ, ông đau khổ hối hận vạn phần, nảy sinh ý định từ bỏ thế sự.
Bùi An Dân cũng hiểu tình hình khó khăn, nhưng vẫn phải nói ra, “Người chết cũng đã chết, người còn sống phải nhìn về phía trước. Tứ đệ lần này thật sự bất lực, đệ ấy không qua lại với nhà họ Hàn, không mở lời được, chỉ có thể nhờ đệ ra mặt, dù sao cũng phải đưa Tam đệ về.”
Bùi Hựu Tĩnh im lặng một lúc, “Tứ ca một lòng muốn ngang hàng ngang vế với Hàn gia, người trong gia tộc cũng không cam chịu phục tùng, hoàn toàn không chừa lại đường lui, giờ lại muốn ta hạ mình cầu xin, có ích gì?”
Người họ Bùi đều tự cao tự đại, Bùi An Dân cũng không muốn cúi đầu, nhưng thật sự chẳng còn cách nào khác, “Các huynh đệ đều biết tình hình khó xử, nhưng Tam đệ quản lý tiền bạc, không có đệ ấy chắc chắn sẽ xảy ra đại họa. Tứ đệ cũng hiểu nỗi mất mát của đệ sau cái chết của Hành Ngạn, đề nghị để đệ nhận Tử Viêm làm con thừa tự, lứa hậu bối trong quân chỉ có nó là nổi trội, được Nhị đệ đích thân dạy dỗ, đệ có người kế thừa gia nghiệp, cũng nên vực dậy tinh thần, giúp gia tộc vượt qua khủng hoảng, suy cho cùng cũng một thể vinh nhục.”
Bên ngoài động đá vang lên tiếng chuông lanh canh, Bùi Hựu Tĩnh im lặng hồi lâu, đoạn thở dài.
***
Thiên Đức quân đã an nhàn quá lâu, suy kiệt từ năm này qua năm khác, các quan viên trong thành gần như tin rằng tình trạng đó sẽ kéo dài mãi mãi, dẫu đổi Phó sứ thì cũng chỉ là việc cho có.
Chỉ tới khi Lục Cửu lang bắt Phùng công, như một tiếng sấm rạch ngang bầu trời, toàn bộ Thiên Đức quân từ trên xuống dưới ngã liểng xiểng.
Lục Cửu lang không khác nào bàn tay sắt, lạnh lùng nhổ bật những gốc cây mục, kéo theo vô số rễ mục béo phì. Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, nhà lao trong thành chật kín người, tiếng chửi rủa vang lên không ngớt, thậm chí phải đuổi bớt những tên trộm vặt để lấy chỗ trống.
Lục Cửu lang ra tay tàn nhẫn, thuộc hạ lẫn thân vệ cũng không kém, trăm người dữ như hổ sói, nhận lệnh giết là giết, tịch biên thành thạo đến mức nhuần nhuyễn, quan viên trong thành ai ai cũng khiếp đảm.
Trong thành gà bay chó sủa, gió tanh mưa máu, đại doanh ngoài thành cũng không thoát khỏi kiếp nạn.
Thiên Đức quân chia thành nội doanh và ngoại doanh, nội doanh có năm nghìn quân trú trong thành, mấy vạn binh sĩ còn lại đóng tại đại doanh ngoài thành. Hàng rào của doanh trại đổ nát, quân kỷ lơi lỏng, đến nỗi khi Lục Cửu lang dẫn người tiến vào mà binh sĩ chẳng thèm chào hỏi một câu.
Ngụy Hoằng nghe tin liền vội vàng chạy tới, lòng thấp thỏm không yên, không rõ đối phương có ý đồ gì.
Khi ông ta xông vào doanh trại, thấy Lục Cửu lang mặt không biểu cảm dựa bàn ngồi nghiêng, bên cạnh là một chồng sổ tên binh sĩ, toàn bộ quân lính trong doanh lỏng lẻo xếp hàng, các thân vệ bắt từng viên Hiệu úy điểm danh.
Ngụy Hoằng sầm mặt, dưới chân khựng lại một thoáng rồi bước nhanh tới trước, “Dám hỏi Lục đại nhân, ngài có ý gì đây!”
Lục Cửu lang liếc mắt qua, giọng điệu bình thản, “Binh lực Thiên Đức quân trong sổ sách là bao nhiêu, quân số thực tế là bao nhiêu, Ngụy đại nhân có rõ không?”
Ngụy Hoằng bị ánh mắt của hắn làm cho sống lưng lạnh toát, kìm nén cơn giận đáp, “Binh lực trong sổ sách là năm vạn, thì sao?”
Lục Cửu lang không khách sáo, “Hiện trong doanh xếp hàng chỉ có khoảng hai vạn, cộng với năm nghìn người trong thành, số còn lại đâu, Ngụy đại nhân ăn hết rồi à?”
Ngụy Hoằng biết không thể chối cãi, máu nóng dâng lên, buột miệng chửi, “Nhiều năm qua vẫn thế! Cái chốn biên thùy này bị triều đình bỏ bê, bị nợ quân lương lâu dài, nghèo nàn khốn đốn, không báo thêm quân số giả thì làm sao sống nổi!”
Thân vệ của Lục Cửu lang thấy ông ta nổi giận liền đồng loạt tiến lên một bước, Ngụy Hoằng lớn tiếng quát, thuộc hạ của ông ta cũng xông tới.
Ngụy Hoằng trừng mắt rút đao ra, nghiến răng nói, “Tên họ Lục kia, ngươi muốn làm cao thì ta nhịn, nhưng nếu định lấy cớ này để gây chuyện thì ông đây cóc sợ, cùng lắm là đánh cả hai cùng chết!”
Lục Cửu lang chỉ chờ khoảnh khắc này, đột ngột lao vọt tới, Ngụy Hoằng không ngờ hắn nói đánh là đánh, đao chưa kịp chém xuống đã bị đánh bay, mắt thấy nắm đấm như gió lốc ập tới, Ngụy Hoằng giơ tay đỡ, ai dè chỉ là hư chiêu, dưới gối bị đá mạnh một phát, thân hình loạng choạng, lập tức bị Lục Cửu lang khóa chặt trên đất.
Ngụy Hoằng bị khống chế, binh lính của ông ta đều ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên làm gì cho phải.
Lục Cửu lang khiêu khích hỏi, “Ngụy đại nhân, vì cớ gì những năm qua ngài cứ ngồi yên ở thành Thiên Đức ăn cát?”
Ngụy Hoằng chết lặng, lửa giận bốc lên, bất chấp tất cả quát mắng, “Mẹ kiếp ngươi thì biết gì! Cái chốn quái quỷ này bao nhiêu năm không có chiến tranh, ngoài việc ngày ngày chịu khổ, lấy đâu ra quân công để thăng tiến, ngươi có tư cách gì chế giễu? Nếu giỏi sao không ở lại Trường An mà vênh váo?”
Lục Cửu lang cười lạnh, “Ngài nói sai rồi, nếu ta không đến thì làm sao Ngụy đại nhân có được quân công?”
Ngụy Hoằng không hiểu, tưởng hắn đang giễu cợt mình, nhưng Lục Cửu lang lại ghé sát nói nhỏ mấy câu.
Mọi người chỉ thấy hai mắt Ngụy Hoằng mỗi lúc một mở lớn, cuối cùng ngây ra.
Dường như ông ta đã quên đi cơn giận vừa rồi, nét mặt trở nên kỳ lạ, đột nhiên hỏi, “Người có cách nhưng bạc lấy đâu ra, triều đình chắc chắn sẽ không chu cấp.”
Lục Cửu lang buông tay, kéo ông ta đứng dậy, cười lớn, “Ngụy đại nhân chưa nghĩ thông rồi, có binh có quyền, còn sợ gì thiếu tiền?”
Phía Nam của Cam Châu tựa lưng vào dãy núi Kỳ Liên cao ngất, ở giữa là bình nguyên rộng lớn với những dòng sông uốn lượn chảy qua, thảo nguyên xanh tươi có ngựa hoang chạy nhảy tung vó, đầm lầy là chốn chim nước chao liệng, phong cảnh ngày xuân đầu hạ chẳng khác nào vùng Giang Nam trữ tình, nơi đây có đất đai màu mỡ hiếm thấy ở vùng biên ải, thích hợp để canh tác, từ đó nuôi dưỡng được đội quân tinh nhuệ và thiện chiến – Nhuệ Kim quân.
Là nhân vật quan trọng nhất trên đất Cam Châu, gia chủ họ Bùi Bùi Hựu Tĩnh đã lâu không xuất hiện.
Cách thành Cam Châu hơn trăm dặm, dưới chân núi tuyết trắng xóa có một ngôi chùa phong cảnh hữu tình. Trên vách núi cheo leo tạc ra những hang động sâu hẹp, nối liền nhau bởi những con đường chênh vênh. Các tăng nhân thành kính trong chùa ngồi thiền, nghiên cứu kinh thư, sống ẩn dật khổ tu.
Gió trời thổi vi vu, hương trầm đưa thoang thoảng, một lão tăng đang giảng kinh cho những người lắng nghe trong động, bỗng ngoài cửa động có tiếng ồn ào.
Một người đàn ông lực lưỡng không màng sự ngăn cản của các tăng nhân, xông thẳng vào quát lớn, “Ngũ đệ, chuyện của Bùi gia đệ cứ thế mặc kệ hay sao!”
Lão tăng bị cắt ngang cũng không nổi giận, chắp tay hành lễ với người vừa đến rồi đứng dậy lánh sang động khác, để người nghe ở lại một mình.
Bùi Hựu Tĩnh bận áo vải trắng, hai bên tóc mai đã điểm bạc, tay cầm chuỗi Phật ngọc ngồi ngay ngắn trên bồ đoàn, thần sắc tĩnh tại, “Đại ca, mọi việc trong tộc đều do Tứ ca quyết định, hà tất đến tận đây làm phiền ta.”
Người đến chính là huynh trưởng Bùi An Dân, nếu không phải tình thế cấp bách thì ông ta cũng chẳng muốn đến. Dằn lại cơn bực tức, ông ta trầm giọng nói, “Tam đệ ở thành Thiên Đức đã bị Lục Cửu lang giam vào đại lao rồi!”
Bàn tay đang lần chuỗi hạt của Bùi Hựu Tĩnh bỗng khựng lại, ánh mắt trở nên sắc bén.
Bùi An Dân kể lại đầu đuôi câu chuyện, căm giận nói, “Thằng chó đó ban đầu giả vờ tử tế, đồng ý hòa giải, nhưng khi Tam đệ vừa đến liền bắt giam người, còn tịch thu sạch sẽ trong ngoài phủ đệ, toàn bộ gia quyến đều bị giam giữ, trọng binh canh phòng nghiêm ngặt, đòi Hàn Thất tướng quân phải đích thân đến thương lượng!”
Bùi Hựu Tĩnh nhíu mày, “Còn Ngụy Hoằng đâu? Những năm qua hắn nhận biết bao nhiêu bạc, lẽ nào ngồi yên?”
Bùi An Dân tức tối đáp, “Ngụy Hoằng không dám ra mặt, nói họ Lục vừa độc ác vừa nham hiểm, là một con chó điên, gần đây một loạt quan viên đều bị nó tịch biên. Các cơ sở của chúng ta trong thành không còn lại bao nhiêu, muốn cướp ngục cũng không nổi, chỉ sợ nó hạ độc thủ với Tam đệ.”
Bùi Hựu Tĩnh đã lâu không can dự vào việc nhà, ông đọc qua sổ tin tức mà Đại ca mang đến, đặc biệt xem kỹ những diễn biến ở Trường An. Một lúc lâu sau, ông ta cười khẩy, hai má hiện lên nếp nhăn sâu, “Nó không điên, nó bắt Tam ca một là vì hận cũ, hai là vì nó vẫn còn nhòm ngó con bé Hàn gia, nó muốn chúng ta đưa người đến cho nó. Đã có ý định như vậy, chắc chắn sẽ không nặng tay, tạm thời Tam ca không nguy hiểm đến tính mạng.”
Bùi An Dân tạm yên tâm, nhưng lại dấy lên nghi ngờ, “Có khi nào là Hàn gia mưu đồ hợp tác, ép chúng ta phải cúi đầu trước họ?”
Từ khi Bùi Hựu Tĩnh lui về ở ẩn, trên danh nghĩa Cam Châu vẫn thuộc quyền quản lý của Tiết độ sứ Hà Tây nhưng thực tế đã đoạn tuyệt liên hệ, gần như tự trị.
Bùi Hựu Tĩnh liếc nhìn huynh trưởng, “Hàn gia không dùng thủ đoạn này. Hơn nữa Thất a đầu đang nắm quyền chỉ huy Xích Hỏa quân, không dễ gì rời khỏi Sa Châu, tiểu Hàn đại nhân cũng không cho phép, chính vì thế nên Lục Cửu lang mới bày ra kế hiểm này. Mối hận giữa nó và Bùi gia quá sâu, nhẽ ra Tam ca không nên tới.”
Bùi An Dân cũng hiểu mình đã mắc mưu, căm hận nói, “Cái tên khốn đó vừa đến thành Thiên Đức đã chặn đoàn thương buôn của chúng ta vào Trung Nguyên, tương lai chắc chắn sẽ gặp phiền phức. Tam đệ chỉ muốn hòa giải, liệu có thể nhờ Tiết độ sứ Sóc Phương ra mặt, đưa người về được không?”
Bùi Hựu Tĩnh dập tắt suy nghĩ đó của ông ta, “Lục Cửu lang chưa đạt được mục đích, tất sẽ không nể mặt ai. Hơn nữa ta có nắm được nhược điểm gì của nó? Giam giữ một phú thương không phải là đại tội, không thể viết sớ tố cáo, đành mời Hàn gia ra mặt vậy.”
Bùi An Dân vẫn không cam tâm, muốn nói lại thôi.
Bùi Hựu Tĩnh hiểu rõ suy nghĩ của huynh trưởng, nhẹ nhàng nói, “Ta biết các huynh cảm thấy Hàn gia hiện tại không bằng trước, không muốn cúi đầu trước bọn họ, nhưng sự việc đã đến nước này, không tránh được đâu.”
Bùi An Dân đành nói thẳng, “Ngũ đệ, từ sau khi Nhị đệ và Hành Ngạn qua đời, đệ không còn xử lý công việc, nhưng chuyện của gia tộc đệ không thể bỏ mặc.”
Bùi Hựu Tĩnh lặng nhìn khói hương mờ ảo, vầng trán nhuốm màu u ám của muôn vàn lo âu.
Bùi An Dân thở dài nói, “Hành Ngạn khi còn sống rất kính trọng đệ, nếu nó có linh thiêng, chắc chắn không muốn thấy đệ trở nên sa sút thế này.”
Bùi Hựu Tĩnh im lặng hồi lâu, “Nhưng ta không phải là một người cha tốt, ta quá nghiêm khắc với nó. Trong trận chiến hai năm trước, ta đã bảo nó phải hành động như một nam nhi, đừng để Bùi gia mất mặt, thế là nó thực sự không rút lui.”
Trận chiến năm ấy nhà họ Hàn không thể đến ứng cứu kịp thời, Nhuệ Kim quân phải gian nan độc chiến, thương vong nặng nề, Bùi Hành Ngạn lại gặp phải Địch Ngân, đâu địch nổi dũng sĩ số một của quân Phồn? Công chúa Cao Xương đau buồn tột độ, chẳng bao lâu cũng theo con trai về nơi chín suối, Bùi Hựu Tĩnh ngày thường luôn trách mắng con trai không nên thân, nhưng sau khi trải qua bi kịch mất anh, mất con rồi lại mất vợ, ông đau khổ hối hận vạn phần, nảy sinh ý định từ bỏ thế sự.
Bùi An Dân cũng hiểu tình hình khó khăn, nhưng vẫn phải nói ra, “Người chết cũng đã chết, người còn sống phải nhìn về phía trước. Tứ đệ lần này thật sự bất lực, đệ ấy không qua lại với nhà họ Hàn, không mở lời được, chỉ có thể nhờ đệ ra mặt, dù sao cũng phải đưa Tam đệ về.”
Bùi Hựu Tĩnh im lặng một lúc, “Tứ ca một lòng muốn ngang hàng ngang vế với Hàn gia, người trong gia tộc cũng không cam chịu phục tùng, hoàn toàn không chừa lại đường lui, giờ lại muốn ta hạ mình cầu xin, có ích gì?”
Người họ Bùi đều tự cao tự đại, Bùi An Dân cũng không muốn cúi đầu, nhưng thật sự chẳng còn cách nào khác, “Các huynh đệ đều biết tình hình khó xử, nhưng Tam đệ quản lý tiền bạc, không có đệ ấy chắc chắn sẽ xảy ra đại họa. Tứ đệ cũng hiểu nỗi mất mát của đệ sau cái chết của Hành Ngạn, đề nghị để đệ nhận Tử Viêm làm con thừa tự, lứa hậu bối trong quân chỉ có nó là nổi trội, được Nhị đệ đích thân dạy dỗ, đệ có người kế thừa gia nghiệp, cũng nên vực dậy tinh thần, giúp gia tộc vượt qua khủng hoảng, suy cho cùng cũng một thể vinh nhục.”
Bên ngoài động đá vang lên tiếng chuông lanh canh, Bùi Hựu Tĩnh im lặng hồi lâu, đoạn thở dài.
***
Thiên Đức quân đã an nhàn quá lâu, suy kiệt từ năm này qua năm khác, các quan viên trong thành gần như tin rằng tình trạng đó sẽ kéo dài mãi mãi, dẫu đổi Phó sứ thì cũng chỉ là việc cho có.
Chỉ tới khi Lục Cửu lang bắt Phùng công, như một tiếng sấm rạch ngang bầu trời, toàn bộ Thiên Đức quân từ trên xuống dưới ngã liểng xiểng.
Lục Cửu lang không khác nào bàn tay sắt, lạnh lùng nhổ bật những gốc cây mục, kéo theo vô số rễ mục béo phì. Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, nhà lao trong thành chật kín người, tiếng chửi rủa vang lên không ngớt, thậm chí phải đuổi bớt những tên trộm vặt để lấy chỗ trống.
Lục Cửu lang ra tay tàn nhẫn, thuộc hạ lẫn thân vệ cũng không kém, trăm người dữ như hổ sói, nhận lệnh giết là giết, tịch biên thành thạo đến mức nhuần nhuyễn, quan viên trong thành ai ai cũng khiếp đảm.
Trong thành gà bay chó sủa, gió tanh mưa máu, đại doanh ngoài thành cũng không thoát khỏi kiếp nạn.
Thiên Đức quân chia thành nội doanh và ngoại doanh, nội doanh có năm nghìn quân trú trong thành, mấy vạn binh sĩ còn lại đóng tại đại doanh ngoài thành. Hàng rào của doanh trại đổ nát, quân kỷ lơi lỏng, đến nỗi khi Lục Cửu lang dẫn người tiến vào mà binh sĩ chẳng thèm chào hỏi một câu.
Ngụy Hoằng nghe tin liền vội vàng chạy tới, lòng thấp thỏm không yên, không rõ đối phương có ý đồ gì.
Khi ông ta xông vào doanh trại, thấy Lục Cửu lang mặt không biểu cảm dựa bàn ngồi nghiêng, bên cạnh là một chồng sổ tên binh sĩ, toàn bộ quân lính trong doanh lỏng lẻo xếp hàng, các thân vệ bắt từng viên Hiệu úy điểm danh.
Ngụy Hoằng sầm mặt, dưới chân khựng lại một thoáng rồi bước nhanh tới trước, “Dám hỏi Lục đại nhân, ngài có ý gì đây!”
Lục Cửu lang liếc mắt qua, giọng điệu bình thản, “Binh lực Thiên Đức quân trong sổ sách là bao nhiêu, quân số thực tế là bao nhiêu, Ngụy đại nhân có rõ không?”
Ngụy Hoằng bị ánh mắt của hắn làm cho sống lưng lạnh toát, kìm nén cơn giận đáp, “Binh lực trong sổ sách là năm vạn, thì sao?”
Lục Cửu lang không khách sáo, “Hiện trong doanh xếp hàng chỉ có khoảng hai vạn, cộng với năm nghìn người trong thành, số còn lại đâu, Ngụy đại nhân ăn hết rồi à?”
Ngụy Hoằng biết không thể chối cãi, máu nóng dâng lên, buột miệng chửi, “Nhiều năm qua vẫn thế! Cái chốn biên thùy này bị triều đình bỏ bê, bị nợ quân lương lâu dài, nghèo nàn khốn đốn, không báo thêm quân số giả thì làm sao sống nổi!”
Thân vệ của Lục Cửu lang thấy ông ta nổi giận liền đồng loạt tiến lên một bước, Ngụy Hoằng lớn tiếng quát, thuộc hạ của ông ta cũng xông tới.
Ngụy Hoằng trừng mắt rút đao ra, nghiến răng nói, “Tên họ Lục kia, ngươi muốn làm cao thì ta nhịn, nhưng nếu định lấy cớ này để gây chuyện thì ông đây cóc sợ, cùng lắm là đánh cả hai cùng chết!”
Lục Cửu lang chỉ chờ khoảnh khắc này, đột ngột lao vọt tới, Ngụy Hoằng không ngờ hắn nói đánh là đánh, đao chưa kịp chém xuống đã bị đánh bay, mắt thấy nắm đấm như gió lốc ập tới, Ngụy Hoằng giơ tay đỡ, ai dè chỉ là hư chiêu, dưới gối bị đá mạnh một phát, thân hình loạng choạng, lập tức bị Lục Cửu lang khóa chặt trên đất.
Ngụy Hoằng bị khống chế, binh lính của ông ta đều ngơ ngác nhìn nhau, không biết nên làm gì cho phải.
Lục Cửu lang khiêu khích hỏi, “Ngụy đại nhân, vì cớ gì những năm qua ngài cứ ngồi yên ở thành Thiên Đức ăn cát?”
Ngụy Hoằng chết lặng, lửa giận bốc lên, bất chấp tất cả quát mắng, “Mẹ kiếp ngươi thì biết gì! Cái chốn quái quỷ này bao nhiêu năm không có chiến tranh, ngoài việc ngày ngày chịu khổ, lấy đâu ra quân công để thăng tiến, ngươi có tư cách gì chế giễu? Nếu giỏi sao không ở lại Trường An mà vênh váo?”
Lục Cửu lang cười lạnh, “Ngài nói sai rồi, nếu ta không đến thì làm sao Ngụy đại nhân có được quân công?”
Ngụy Hoằng không hiểu, tưởng hắn đang giễu cợt mình, nhưng Lục Cửu lang lại ghé sát nói nhỏ mấy câu.
Mọi người chỉ thấy hai mắt Ngụy Hoằng mỗi lúc một mở lớn, cuối cùng ngây ra.
Dường như ông ta đã quên đi cơn giận vừa rồi, nét mặt trở nên kỳ lạ, đột nhiên hỏi, “Người có cách nhưng bạc lấy đâu ra, triều đình chắc chắn sẽ không chu cấp.”
Lục Cửu lang buông tay, kéo ông ta đứng dậy, cười lớn, “Ngụy đại nhân chưa nghĩ thông rồi, có binh có quyền, còn sợ gì thiếu tiền?”