Ly Nhân Tâm Thượng Ngọc - Điêu Huyền Mộ Ngẫu
Chương 6: Ngoại truyện 1
Ngoại truyện 1:
Tuyên Giác gặp Tạ Trùng Tự lần đầu tiên là vào đầu xuân năm Thái Nguyên thứ ba.
Chàng vừa tan học, chân rảo bước trên nền gạch xanh của con phố Chu Tước, trở về phủ ngự sử.
Bất luận là ngoại ô hay trong thành, cảnh vật đều tươi đẹp ngập nắng, rặng liễu bên đường đang bật chồi non.
Lúc này, chàng nghe thấy phía trước vang lên mười ba hồi chiêng, tiếp theo đó là tiếng hô uy nghiêm của binh lính mở đường:
“Xa giá của công chúa, quan viên lớn nhỏ cùng dân chúng tránh sang một bên”
Mọi người tránh sang hai bên như rẽ nước.
Tuyên Giác cũng lùi lại bên đường theo đám đông, cung kính cúi đầu.
Thấp thoáng nghe thấy tiếng thì thầm bàn tán:
“Công chúa? Dưới gối thánh thượng của chúng ta còn có công chúa ư?”
“Chắc là có rồi, tiên hoàng hậu không phải đã sinh một bé gái sao…”
“Nhưng sao chưa từng nghe thấy?”
“… ta cũng chưa từng nghe, chỉ biết tới quận chúa An Vinh thôi, công chúa kiểu gì mà chẳng ai hay biết vậy”
Tuyên Giác đứng im một chỗ lắng nghe.
Những thường dân này có lẽ không biết, nhưng chàng sinh ra trong gia đình thế gia, cha lại làm quan trong triều, nên có biết được đôi chút.
Tiên hoàng hậu bị thích sát qua đời năm Minh Quang thứ mười hai, đương kim bệ hạ đau buồn không thôi, đổi nên hiệu thành Thái Nguyên.
Còn vị công chúa mà tiên hoàng hậu sinh cũng vì gặp thích khách mà bị thương hay trúng độc gì đó, ngay trong đêm được đưa ra khỏi thành điều trị.
Mấy năm nay vẫn ở lại ngoại ô.
Cũng vì lẽ đó, thiếu nữ đứng đầu trong kinh vài năm gần đây không phải công chúa, mà là quận chúa An Vinh.
Nói mới nhớ, vị điện hạ này không phải sớm đã được ban phong hào rồi sao?
Là…
Tuyên Giác bất chợt không nghĩ ra, lông mày hơi cau lại.
Bỗng, chàng nhìn thấy hai miếng ngọc bội trên eo mình, tim đập mạnh một nhịp.
À, là “Nhĩ Ngọc”.
Cũng có một chữ “Ngọc”.
Nhĩ Ngọc kết hợp lại thành chữ “tỷ”, biểu tượng của đế vương, đây quả thực là một phong hào vô cùng tôn quý.
Mà chiếc xe giá và đám tùy tùng kia cũng thể hiện tình yêu thương của hoàng thượng đối với vị công chúa này, Tuyên Giác chỉ liếc qua, không quan sát tỉ mỉ.
Chàng chỉ loáng thoáng nhìn thấy một bóng hình màu đỏ đang ngồi bên trong.
Chiếc xa giá đó rất xa hoa lộng lẫy, tiếng chuông kêu lanh lảnh, màn che được buông xuống, phía trước có mười hai người kéo, phía sau có mười hai người đi sát theo, hai cánh quạt lớn từ lông chim, bốn khung giá xung quanh để ngăn cản đám đông, mở đường.
E rằng xa giá của đương kim thánh thượng cũng không xa hoa đến nhường này.
Sau khi xe ngựa đi qua, tiếng chuông tiến lại gần.
Xa giá đi qua trước mặt, cách Tuyên Giác không tới năm thước.
Đuôi áo tung bay theo làn gió, quét qua hai miếng ngọc trên eo chàng, rồi lặng lẽ rơi xuống.
Giống như một giấc mộng xa xăm.
Tuyên Giác không kìm được mà ngẩng đầu.
Khoảng cách lúc này rất gần, có thể nhìn rõ được đường nét thiếu nữ ngồi bên trong.
Nàng đeo khăn che mặt, không thấy rõ dung mạo, chỉ có đôi mắt đang thẫn thờ ủ rũ nhìn về phía trước.
Phía trước là con phố Chu Tước rộng rãi trống trải, kinh thành không hề thay đổi, cuối phố là tường vây màu tím của hoàng cung.
Người ngồi sau bức rèm có vẻ rất buồn chán vì phải ngồi im như một con rối gỗ, như cảm nhận được ánh mắt của chàng, bỗng nhiên nàng nghiêng đầu nhìn sang.
Tuyên Giác không kịp thu lại tầm mắt, cứ thế chạm phải ánh mắt nàng.
Cây liễu bên kia đường vô cùng to lớn, cành lá sum suê, nóc xa giá sượt qua tán lá, bóng râm mờ nhạt phủ lên trên.
Bên trong, thiếu nữ sững lại một hồi, khi chàng đang bối rối, đôi mắt đó cong lên, nâng tay che miệng.
Nàng như thể đang cười.
Đợi đoàn xe giá cùng tùy tùng đi xa, tiếng mở đường cũng trở nên thấp thoáng, Tuyên Giác mới chậm rãi hồi thần, một lần nữa ngẩng đầu lên.
Chàng bỗng nhớ ra, chàng chỉ biết phong hào của vị điện hạ này, không biết tên.
Tuyên Giác vốn chỉ coi đó là một cuộc gặp gỡ vô tình, không cố ý tìm hiểu thêm.
Nhưng chàng vẫn mau chóng biết được tên của nàng.
Đó là một buổi trưa gần một tháng sau, Thích Văn Lan tới tìm chàng chơi cờ, thở hồng hộc ngồi xuống ghế, nói: “Mẹ kiếp, Tạ Trùng Tự hồi kinh rồi. Ta hôm nay mới biết tin”.
Nói rồi, nhặt một con cờ đen, nhanh như chớp hạ xuống bàn cờ mà Tuyên Giác đang tự chơi một mình.
Tuyên Giác rót trà cho hắn, đẩy tới, cất giọng hỏi: “Tạ Trùng Tự? Ai vậy?”
Họ Tạ, có lẽ là một vị quận chúa nào đó?
Thích Văn Lan nhìn hắn bằng ánh mắt cổ quái: “Ngươi không biết?”
Sau đó lại nghĩ ra: “À đúng, ngươi sao biết được. Trước năm Thái Nguyên, ngươi không sống ở Vọng Đô nên đã bỏ lỡ. Tạ Trùng Tự là cái người vừa mới hồi kinh gần đây”.
Hắn hất cằm về phía hoàng cung phía bắc, sau đó duỗi ra năm ngón tay ra, nói: “Cũng chính là Nhĩ Ngọc điện hạ, kẻ hay gây chuyện mà cha ngươi ít nhất đã năm lần dâng sớ chỉ trích đó”.
Tuyên Giác: “…”
Thích Văn Lan giục chàng: “Mau đánh đi! Tới ngươi rồi!”
Tuyên Giác dừng mạch suy nghĩ, thong thả chặn đường rút lui của quân đen, bỗng cất tiếng hỏi: “Ngươi và vị điện hạ đó thân thiết lắm sao?”
Thích Văn Lan tuy thẳng thắn hấp tấp, nhưng không phải kẻ tùy tiện, nếu không thân quen, hắn sẽ không gọi thẳng tên ra như vậy. Nghiêm túc mà nói, đây có thể quy vào tội bất kính với hoàng gia.
“Ừ, hồi nhỏ thi thoảng chơi cung nhau, sau này nàng ta tới Quỷ Cốc trị thương…” giọng nói Thích Văn Lan ngừng lại, tự biết mình lỡ miệng, nhưng ngước lên thấy sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường, lại nghĩ tới việc Tuyên Giác vốn kín miệng, có thể tin tưởng, vậy là tiếp tục chậm rãi nói, “có vài lần ta đi cùng đoàn quân tiếp tế, gửi thư cho nàng ta giúp bệ hạ. Coi như thân quen”.
Hắn bực bội gãi đầu, hạ cờ càng lúc càng ẩu, nói: “Cũng chính vì thân nhau, nàng ta hồi kinh cũng không báo với ta, nên ta mới tức chết! Hơn nữa, với tính cách nàng ta… nhất định sẽ phải chịu thiệt trước đám quý nữ kinh thành”.
Nghe nhắc tới Quỷ Cốc, Tuyên Giác liền hiểu.
Trong Quỷ Cốc có rất nhiều người giỏi y thuật, nhưng tính cách họ cổ quái khác thường, yêu ghét tùy hứng.
Vậy nên, cho dù bọn họ có thể cải tử hoàn sinh thì vẫn bị người đời xa lánh.
“Ngươi nghĩ mà xem, lúc nhỏ nàng ta đã ương bướng, nay lại ở Quỷ Cốc ba năm, đám người trong kinh chịu được vị tổ tông đó mới lạ. Dù gì cũng nên báo trước ta một tiếng, ta quen thuộc cả trong cung lẫn ngoài cung, có thể giúp nàng ta tổng kết điểm mạnh yếu của kẻ địch đúng không?” Thích Văn Lan càng nói càng tức.
Tay vỗ bàn, uống cạn nửa chén trà còn lại.
Ngón tay Tuyên Giác kẹp một quân cờ trắng, nhẹ nhàng đặt xuống bàn cờ, không mặn mà nói: “Tập trung đánh cờ đi. Đừng ăn nói hàm hồ về quý nhân nữa”.
Thích quý phi được sủng ái, Thích gia cũng được thơm lây.
Thích Văn Lan đôi lúc ăn nói không suy nghĩ, cũng không đặt bất kì ai vào mắt.
Chàng là bạn hắn nên khi cần thì vẫn phải nhắc nhở vài câu.
Sau đó, chàng hạ quân cờ, nói: “Giết”.
Thích Văn Lan lúc này mới tập trung vào ván cờ, nhìn chăm chú một lúc, ủ rũ quăng quân cờ đi, nhận thua: “Là ta phân tâm, chơi ván khác đi”.
Chơi liền ba ván, Thích Văn Lan đều bị đánh bại. Hắn chống tay lên trán kêu than: “Thấy huynh đệ đang buồn, không nhường chút được sao?”
Tuyên Giác đặt viên ngọc trở lại hộp cờ, thong dong pha ấm trà, sau cùng mới nói: “Không phải ngươi không thích ta nhường sao? Hơn nữa… ngươi cứ tự mình đa tình làm gì? Cẩn thận chuốc phiền phức tới cho người khác”.
Lời nói có hơi sắc bén, Thích Văn Lan sững lại, nghe thấy Tuyên Giác lại nói: “Trong kinh không giống Quỷ Cốc, lớn lên cũng sẽ khác khi còn nhỏ, thêm nữa, gần đây trong triều biến hóa thất thường, ngươi nên cẩn trọng một chút”.
Thích Văn Lan ngẫm nghĩ trong giây lát, mới nghiêm túc nói tiếng cảm ơn, sau đó còn nói chuyện cùng Tuyên Giác một lúc, mời đứng dậy cáo từ.
Tuyên Giác vẫn ngồi lại, nhàn nhã thong dong rửa trà cụ, cất đi.
Lúc này, chàng và Tạ Trùng Tự chỉ là người xa lạ, ngẫu nhiên chạm mặt một lần mà thôi, chưa nảy sinh lòng ái mộ.
Chỉ có ấn tượng đôi chút…
Đôi mắt đó lanh lợi, cong cong như vầng trăng khuyết.
Vì vậy, tuy Tuyên Giác có hơi nặng lời với Thích Văn Lan, nhưng đều xuất phát từ đáy lòng.
Hi vọng hắn tỉnh táo trở lại.
Nhưng vị huynh đệ này vẫn cứ lao đầu vào.
Thi thoảng nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.
Còn Tạ Trùng Tự cũng càng lúc càng vang danh.
Trước đây, quận chúa An Vinh và tiểu thư tướng phủ thường được đám văn nhân hết lời ca tụng, nhưng chỉ sau một đêm, nhân vật chính được thi ca ẩn dụ đã đổi sang người khác.
Thế nhân dùng mẫu đơn để nói về công chúa Nhĩ Ngọc.
Tuyên Giác rất ít tham gia các buổi yến tiệc, khi nghe thấy Thích Văn Lan nhắc tới chuyện này, chàng có chút kinh ngạc.
Dẫu sao nàng ấy vẫn là thiếu nữ chưa tròn mười lăm, đâu nên dùng loại hoa quốc sắc thiên hương, vua của muôn loài hoa như mẫu đơn để ẩn dụ chứ.
Chàng không nén nổi sự kinh ngạc.
Cho tới tận hội săn mùa thu năm đó, chàng lần đầu được tận mắt chiêm ngưỡng bóng hình đỏ rực kia.
Áo đỏ ngựa đỏ, xinh đẹp rực rỡ.
Dung mạo nàng lạnh lùng kiêu ngạo, nhưng cử chỉ hành động lại thẳng thắn hiên ngang.
Hệt như một ngọn lửa.
Đừng nói mẫu đơn, ngay cả dùng kim ô để miêu tả về nàng cũng không xứng.
Nói ra cũng kì lạ, khi đó ý nghĩ đầu tiên của chàng là muốn hỏi lại câu hỏi kia của Thích Văn Lan.
Trong hơn một năm nay, ở trong cung hay trong kinh thành, nàng có từng chịu thiệt không?
Nàng ăn miếng trả miếng với chúng?
Hay chỉ cau mày không thèm đặt trong lòng?
Cảm xúc của chàng hiếm khi trỗi dậy như vậy, đợi tới khi hồi thần, tên đã bay ra khỏi cung, ghim con thỏ đó xuống đất.
Chàng thầm than trong lòng.
Chỉ có thể mau chóng thúc ngựa tới, dùng roi da lấy mũi tên lông vàng của Tạ Trùng Tự lên, nói: “Điện ha, của người. Không biết điện hạ ở đây nên đã thất lễ, mong người thứ tội”.
Tạ Trùng Tự có đôi mắt hạnh rất xinh đẹp, lúc nhìn người ta, ánh mắt sáng lấp lánh, Tuyên Giác bị nàng nhìn thì có đôi chút mất tự nhiên, thấy nàng cười híp mí với mình, rồi lại quay đầu nói với Thích Văn Lan: “Văn Lan huynh, ta quyết định rồi, ta không cược cho huynh nữa, ta cược hắn”.
Thích Văn Lan sững sờ, sau đó căm phẫn nói: “Thấy sắc khinh bạn! Trọng sắc khinh bạn! ngươi, ngươi, ban nãy ngươi còn nói hắn là tên…”
Đứng trước mặt chính chủ, Thích Văn Lan khó khăn nuốt mấy chữ “tên ẻo lạ” kia lại, rồi tiếp tục lên án.
Tuyên Giác nghe một hồi, liền biết ban nãy Tạ Trùng Tự có ý gì.
Quý nữ trong kinh thành sẽ không cưỡi ngựa bắn tên, trong hội săn các nàng cũng chỉ ngồi một bên nói chuyện, cá cược xem ai sẽ dẫn đầu mà thôi.
Xem tình hình, ban đầu Tạ Trùng Tự cược cho Thích Văn Lan sao?
Vậy vừa rồi…
Chuyển sang cược cho chàng?
Tuyên Giác kìm nén sự giao động trong lòng, không ai nhìn ra được bất thường, chàng ho một tiếng: “… cái đó, hai vị, hội săn đã bắt đầu, chúng ta nên tranh thủ thời gian thôi”.
Sau khi hội săn mùa thu kết thúc, Tuyên Giác ôm con thỏ chỉ bị thương ngoài da, vẫn chạy nhảy hoạt bát kia vào lòng, sau đó hẹn ngày cùng Thích Văn Lan tụ tập, chuẩn bị rời đi.
Bỗng cảm thấy bên cạnh có ánh mắt hướng về phía mình, Tuyên Giác quay đầu lại, quả nhiên thấy Tạ Trùng Tự đang nhìn chằm chặp vào con thỏ trong ngực chàng.
Thấy chàng nhìn lại, Tạ Trùng Tự không né tránh mà còn chớp chớp mắt một cách tự nhiên.
Nhưng có lẽ vẫn đang đắn đo, nàng không mở miệng.
Tuyên Giác bất chợt nở nụ cười.
Công chúa mà phải cầu xin con mồi từ thần tử, quả thực mất hết thể thống, nhưng con thỏ trắng này vốn là của nàng mà.
Vậy nên, Tuyên Giác tặng nó cho Tạ Trùng Tự, nghe nói nàng đặt tên cho nó là “tiểu Hắc”, chàng cảm thấy rất buồn cười.
Ngoài ra còn thấy… đáng yêu.
Lần thứ nhất gặp mặt cách lần thứ hai gần hai năm. Lần thứ ba lại chỉ cách trước đó một tháng.
Yến tiệc cuối năm trong cung.
Chàng vốn không thích đông người, nhưng lần này là hoàng thượng triệu kiến.
Người muốn đánh một ván cờ cùng chàng.
Có lẽ gần đây chàng đã thắng quá nhiều ở Mặc Vận Lâu nên bị thánh thượng để mắt tới.
Yến tiệc linh đình, tuyết rơi dày đặc, có người gảy đàn, có kẻ vẽ tranh.
Tuyên Giác cùng hoàng thượng, Tạ Sách Đạo, đánh cờ trong đình viện giữa hồ.
Hồ Thái Cực chia thành hai nửa đông tây, có hình thù như trận đồ bát quái, còn ngôi đình này nằm ở trung tâm hồ.
Đình viện hình bát giác với phần mái màu đen, điểm xuyến cho mặt nước mênh mang, như một hạt bụi rơi vào cõi trần.
Bốn phía được đốt lò sưởi, vô cùng ấm áp.
Lúc này, tùy tùng đang lần lượt rót trà cho hai người đang mải mê đánh cờ kia.
Tưởng công công đưa tách trà tới bên tay Tạ Sách Đạo và Tuyên Giác, thấy hai người vẫn đang trầm tư suy nghĩ, không dám quấy rầy, chỉ mở nắp tách trà ra, thi thoảng lại kiểm tra độ nóng, thấy nguội liền đổi tách khác.
Tưởng Minh cũng hiểu chút ít về cờ, có thể nhìn ra được, quân trắng của Tuyên Giác đang chiếm thế thượng phong.
Hắn bất giác lau mồ hôi.
Đạo lí hầu hạ quân vương có rất nhiều quy tắc.
Ví dụ như đánh cờ, không thể thua quá thảm, cũng không thể thắng quá oanh liệt, phải nắm bắt được tâm tư hoàng đế.
Mỗi một trường hợp lại có một cách xử lí khác nhau.
Hôm nay, tâm tình bệ hạ không tốt lắm, quả thực không nên thắng người…
Bỗng, Tưởng Minh nghe thấy bên hồ có tiếng người truyền tới, quay đầu ra xem, liền thấy một bóng hình màu đỏ quen thuộc, hiển nhiên là Nhĩ Ngọc điện hạ.
… nhưng bên cạnh người là ai kia?
Quận chúa An Vinh sao?
Chỉ thấy Tạ Trùng Tự bước đi thong dong, một lúc sau mới quay đầu lại cau mày: “Biết sai rồi sao?”
Có lẽ vì tuyết đang rơi, cảnh vật yên tĩnh, hoặc cũng có thể do giọng nói của Tạ Trùng Tự thánh thót lanh lảnh, ở tận giữa hồ cũng nghe được rõ ràng.
“…”quận chúa An Vinh tuổi tác tương đương với Tạ Trùng Tự, cũng là một tiểu cô nương lanh lợi hoạt bát, nhưng lúc này đây nàng ấy đang cúi đầu, lí nhí nói câu gì đó, Tạ Trùng Tự nghe xong liền cau mày.
Lập tức lạnh lùng cất tiếng: “Muội cũng lắm lí lẽ nhỉ”.
Tạ Trùng Tự dùng tay gấp quạt lại, gõ nhẹ lên đầu quận chúa An Vinh, rồi nói tiếp: “Trong yến tiệc trưa nay, phụ hoàng chỉ vào Trần Mặc rồi dạy dỗ ta “xem người ta cầm kỳ thi họa xuất sắc biết bao”, ta còn không phản bác. Nàng ta làm gì muội mà muội lại đập đàn của người ta? Còn âm thầm ngáng chân người ta nữa?”
“… muội không nhìn nổi điệu bộ đó của nàng ta thôi” quận chúa An Vinh lẩm bẩm, bị vị đường tỷ mà mình yêu quý mắng, nàng ấy buồn đến mức phát khóc, “loại người như nàng ta, trước mặt mọi người ra sức thể hiện, chiếm trọn vinh quang, sau lưng lại nói xấu tỷ…”
Tạ Trùng Tự vỗ quạt vào lòng bàn tay, sau khi nghe hết lời của quận chúa An Vinh, thở dài một tiếng: “Nàng ta là người thế nào, nàng ta gây khó dễ cho ta thì liên quan gì tới muội? Hôm nay nàng ta khiêu khích muội sao? Đang yên đang lành lại đập vỡ đàn, muội nói xem việc này có đúng không? Hơn nữa, muội đi guốc trong bụng nàng ta sao mà biết nàng ta nói xấu ta? Chỉ là mấy lời đồn thổi vô căn cứ, nếu đó là giả thì không phải muội đã bắt nạt nàng ta sao? Cuối cùng…”
Tạ Trùng Tự dừng lại đôi chút, xoa đầu quận chúa An Vinh, nói: “Ta cũng đâu sống nhờ vào lời bàn tán của kẻ khác. Ta thế nào, ta ra sao thì phải do đích thân ta nói mới tính. Muội không bận lòng, kẻ khác cũng sẽ không có cớ đánh giá. Ta biết muội có ý tốt, nhưng lần sau đừng bốc đồng như thế nữa, hiểu chưa?”
Quận chúa An Vinh lúc này mới thôi nức nở, gật đầu nói: “… vậy muội đi xin lỗi nàng ta”.
Nàng ta ôm lấy cánh tay Tạ Trùng Tự, nở nụ cười hồn nhiên, cùng nhau rơi đi.
Tưởng Minh mải mê lắng nghe, lúc này mới hồi thần trở lại, nghe thấy Tạ Sách Đạo cười lớn, tâm tình như thể đã tốt lên nhiều, người bất đắc dĩ lắc đầu: “Nha đầu Trùng Trùng này bắt nạt hết người này tới người khác. Tưởng Minh, không phải năm ngoái ngươi còn nói với trẫm, quận chúa an Vinh không thích Trùng Trùng sao? Nhìn đi, không phải rất nghe lời sao?”
Tưởng Minh cười ha ha rồi nói: “Điện hạ giống người và nương nương, luôn công bằng với tất cả mọi người, đương nhiên sẽ được yêu mến”
Hắn vừa nói, vừa thay trà cho Tạ Sách Đạo, thuận tiện liếc qua bàn cờ thì kinh ngạc phát hiện, Tuyên Giác ban nãy còn chiếm thế thượng phong mà lúc này đã yếu thế đi.
Sau khi đổi xong trà, Tưởng Minh lại tỉ mỉ xem xét, hóa ra là do Tuyên Giác đã đi sai vài nước, tâm tư chàng có vẻ không ổn định, hồn đã bay đi đâu mất tiêu.
Tưởng Minh: “…”
Đánh thắng cờ thì không ổn lắm, nhưng cũng không thể lừa gạt bệ hạ vậy chứ!
May mà sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường.
Chàng im lặng quan sát thế cờ, suy ngẫm một hồi, rồi bày bố lại thế cục.
Vừa rồi chắc hẳn không để tâm vào ván cờ, nhưng có thể cứu vãn, cuối trận cầm hòa.
Chàng tính toán rất tốt, quân trắng và quân đen ngang nhau, không phân được thắng thua.
Tạ Sách Đạo cũng không để ý tới mấy nước cờ hỗn loạn vừa rồi của chàng, không mặn không nhạt khen ngợi vài câu, sau đó nở nụ cười đứng dậy, nói với Tưởng Minh: “Ha ha đi thôi, qua xem Trùng Trùng thế nào. Nha đầu này thế mà lại nhớ lời dạy của trẫm, lại còn mang ra để bắt nạt người ta. Tuyên Giác, ngươi đi làm việc của mình đi”.
“Cung tiễn bệ hạ” Tuyên Giác cung kính nói.
Sau khi Tạ Sách Đạo đi khỏi, Tuyên Giác nhìn lại bàn cờ một lúc, nhặt vài quân cờ lên, chậm rãi thở dài.
Quả nhiên không nên phân tâm.
Càng không nên…
Chàng đã hơi động lòng rồi.
Nhưng tiếng lòng của Thích Văn Lan ai nấy đều hiểu, khi cùng hắn nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.
Chàng không thể cướp người trong lòng của người khác được.
Chỉ đành tránh càng xa càng tốt vậy.
Cũng may mà chàng và nàng trước nay chưa từng qua lại.
… ngoại trừ Thích Văn Lan luôn miệng nhắc tới.
Có một lần Thích Văn Lan tìm chàng uống rượu, cuộc nói chuyện của văn nhân không thể tách khỏi bàn rượu, Tuyên Giác không từ chối, sau khi uống nửa vò rượu, cả hai đều ngà ngà say.
Thích Văn Lan bắt đầu lảm nhảm: “Trong Chuyết Chính Viên có rất nhiều động vật hoang dã. Hôm qua, ta tới đó thấy ở phía đông có ba con chim ưng, nhìn rất oai phong, móng vuốt sắc nhọn. Hỏi ra mới biết là Tạ Trùng Tự nuôi. Giỏi thật đấy, ta còn chẳng biết thuần phục chúng…”
“… đừng nói nữa” Tuyên Giác ấn tay lên mi tâm, hơi rượu bốc lên, chàng sắp say khướt rồi.
“Hả?” tên ngốc Thích Văn Lan không hiểu, “ngươi nói gì?”
“Ta nói, đừng nói nữa, Đừng nhắc tới nàng ấy, được không?” Tuyên Giác bỏ tay xuống, ánh mắt cố kiềm nén, “ta không muốn nghe”.
Thích Văn Lan gãi đầu: “Được được được, không nói, không nói nữa. Ngươi nói ta cũng phải ha, huynh đệ ra ngoài tụ tập mà cứ nhắc tới nữ nhân, ha ha ha, lần sau không nói nữa, Nào uống đi!”
Tuyên Giác vừa cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng cũng lại thấy mất mát, tiếc nuối, chàng thở dài một hơi.
Chàng chỉ muốn cách càng xa càng tốt thôi.
Nếu không, một khi tới gần, sẽ không nhịn được mà càng muốn tiến lại gần hơn.
Một khoảng thời gian về sau, chàng cố ý lạnh nhạt, giữ khoảng cách với Thích Văn Lan.
Chàng không hề biết chuyện Thích Văn Lan và Tạ Trùng Tự tới Giang Nam.
Do vậy, lúc chuẩn bị lên thuyền hoa, nhìn thấy Thích Văn Lan, Tuyên Giác hơi sững sờ, đến khi nhìn thấy Tạ Trùng Tự ăn vận như một công tử đứng bên cạnh, hô hấp của chàng như đình trệ, sau đó mới gật đầu chào hỏi.
Đã rất lâu rồi chưa gặp nàng ấy.
Như thể vì đã rời xa kinh thành, không cần chú ý các lễ tiết rườm rà, nên Tạ Trùng Tự thư thái hơn rất nhiều, cả người dựa lên quầy tính tiền, nghe thấy lời của chàng thì ngước mắt lên, vô cùng vui mừng, cười nói: “Vậy cảm ơn nhé”.
Tuyên Giác biết, có một người nữa cũng đang vui mừng, đó là chàng.
Chàng không nhịn được, dành cả một đêm trên thuyền cùng nàng, bằng không, với tính cách Tuyên Giác, nếu ngày hôm sau có việc, chàng sẽ không thức trắng đêm.
Khi nghe thấy Thích Văn Lan nói nàng trúng gió phát sốt, chàng vội vã chạy tới.
Thích Văn Lan quả thực rất lo lắng: “... mẹ ơi, nàng ta trúng gió độc, một hai năm gần đây cơ thể mới tốt lên, vậy mà lại bị trúng gió”.
Tuyên Giác không nói gì, chần chừ một lúc, cuối cùng vẫn bắt mạch cho nàng.
Đến khi nhìn thấy những vết thương dày đặc trên cổ tay nàng, chàng sững lại.
Những vết này đều là dấu răng, có lẽ nàng không nhịn nổi nên tự cắn tay mình.
Sinh ra trong hoàng gia, có rất nhiều chuyện thân bất do kỷ.
Cho dù Tạ Trùng Tự có được yêu chiều thì cũng sẽ gặp phải trắc trở, phong ba, cũng sẽ có lúc tuyệt vọng, không biết phải làm gì.
Ngón tay Tuyên Giác run lên nhưng vẫn trấn tĩnh bắt mạch cho nàng, tìm về ba bốn cung nữ, để bọn họ đưa Tạ Trùng Tự đi ngâm nước nóng cho ra mồ hôi, sau đó chàng canh giữ bên giường nàng cả đêm.
Chàng nghĩ, mình cần phải che dấu đi trái tim mình.
Chàng che giấu được một tháng, qua trung thu, ở Xuân Oanh Đề Hiểu, Thích Văn Lan đã trông thấy bức họa đó.
Khi đó Thích Văn Lan chỉ cúi đầu, không nói năng gì, nhưng ngày hôm sau liền tìm tới cửa, hắn hất tung cả bàn: “Ngươi có ý gì?”
Lúc đó, Tuyên Giác vẫn chưa chỉnh đốn lại mạch suy nghĩ, chàng ấn lên lông mày, không dám nói quá nhiều, cũng không dám phủ nhận, chỉ nói: “Như ngươi đã thấy”.
Không ngờ, sắc mặt của kẻ trước nay không làm sáng tỏ sẽ không bỏ cuộc như Thích Văn Lan lại biến đổi liên tục, không hiểu hắn nhớ tới điều gì, sau khi thốt ra vài câu khó nghe liền rời đi. Với tính khí của hắn, đây đã coi như quá dễ nói chuyện rồi.
Lần tiếp theo gặp lại Thích Văn Lan, hắn tới cướp ngục cứu chàng ra.
Thực lòng mà nói, hồi ức về những tháng ngày đó đã phai mờ trong tâm trí Tuyên Giác, giống như một giấc mộng hỗn loạn, rời rạc.
Chàng chỉ còn nhớ, gió tuyết đêm đó lạnh thấu xương, ác liệt dày vò chàng.
Tiếng gió bắc rít bên tai như thể tiếc than khóc của những linh hồn.
Tạ Sách Đạo ngồi ở trên cao, ngạo nghễ quyết định số phận của Tuyên gia, bố thí cho chàng một mạng.
Đêm đó… đã trở thành cơn ác mộng ám ảnh chàng.
Ám ảnh tới nỗi, sau này mỗi khi mơ thấy nó, chàng đều giật mình tỉnh giấc giữa đêm.
Sau khi tỉnh dậy, thấy người bên cạnh đang thở đều đều, lông mi khẽ động, dưới ánh trăng, nàng xa vời không chút chân thật.
Tuyên Giác nhìn bức thư được gấp lại, kẹp trong cuốn sách trên bàn.
Bên trong viết tất cả chân tướng về vụ án của Tuyên gia.
Cục diện chính trị của đại Tề hỗn loạn, đương kim hoàng thượng và thái tử đều độc đoán, tàn bạo như nhau, khiến bách tính phẫn nộ, người đời chỉ trích.
Tự nhiên sẽ có kẻ giang tay, muốn hợp tác cùng vị phò mã có cùng chung kẻ thù là chàng.
Phong ba đã âm thầm nổi lên từ lâu.
Tuyên Giác thu hồi ánh mắt, trong lòng chất chứa một mớ hỗn độn, chàng cúi đầu, hôn lên đôi mắt đang ngắm nghiền của Tạ Trùng Tự.
Công bằng mà nói, chàng không có hảo cảm với cha con Tạ Sách Đạo và Tạ Trị.
Bắt tay cùng những kẻ có dã tâm, âm thầm giúp đỡ chúng chiếm đoạt ngai vàng, mượn tay chúng giết người, Tuyên Giác chẳng hề có chút nao núng.
Trên thực tế, đây là một cuộc làm ăn có lãi. Vừa không phải lộ diện nhưng vẫn có thể báo thù.
Thân thế bi thảm của chàng, tính mạng của một trăm ba mươi hai người của Tuyên gia là sự bảo đảm tốt nhất.
Nhưng Tạ Trùng Tự sẽ không giữ nổi mạng nữa.
Trùng Trùng của chàng là người thông tuệ biết bao.
Có vị tân đế nào dám giữ lại mạng cho một vị công chúa tiền triều như nàng?
Trừ khi, người đăng cơ… là chàng.
Mưu kế cho dù được dàn dựng tỉ mỉ tới mấy, vẫn không cản được nàng xông vào cung, Tạ Trùng Tự thấy đôi tay đẫm máu của chàng.
Đôi mắt hạnh của nàng kinh hoàng tột độ.
Không biết vì sao, Tuyên Giác chợt nhớ tới ngày đó trên đường Chu Tước, đoàn xa giá hùng hậu nghênh đón công chúa trở lại kinh thành.
Cũng là một ngày xuân như hôm nay.
Dưới lớp màn che, đôi mắt nàng như phủ lớp sương mù, lung linh tuyệt sắc.
Còn hôm nay, đôi mắt ấy ướt đẫm lệ.
“Điện hạ, đừng nhìn hắn” Tuyên Giác thở dài rồi nói, “hãy nhìn ta”.
Nhìn ta.
Trùng Trùng.
Nàng hãy nhìn ta, được không?
Đừng nhìn Tạ Trị nữa.
Hắn… hoàng huynh của nàng, ca ca của nàng, đã bị ta giết chết rồi.
Nàng càng nhìn, sẽ càng hận ta thôi.
Cho tới hôm nay, Tuyên Giác mới biết…
Mọi chuyện không thể nào trở lại được nữa.
Bất luận là lần đầu gặp gỡ trên phố, hay hội săn mùa thu, mùa đông bên hồ, hay Giang Nam mưa đổ, hoặc ngay cả tháng ngày hạnh phúc sau thành hôn, bẻ cành cắm hoa, họa mày tấu nhạc…
Đều không thể trở lại được.
Tất cả như biến thành giấc mộng đã xa cách nhiều đời.
Tỉnh mộng, khắp nơi đều có hoa rơi, không ai đón lấy.
Tuyên Giác gặp Tạ Trùng Tự lần đầu tiên là vào đầu xuân năm Thái Nguyên thứ ba.
Chàng vừa tan học, chân rảo bước trên nền gạch xanh của con phố Chu Tước, trở về phủ ngự sử.
Bất luận là ngoại ô hay trong thành, cảnh vật đều tươi đẹp ngập nắng, rặng liễu bên đường đang bật chồi non.
Lúc này, chàng nghe thấy phía trước vang lên mười ba hồi chiêng, tiếp theo đó là tiếng hô uy nghiêm của binh lính mở đường:
“Xa giá của công chúa, quan viên lớn nhỏ cùng dân chúng tránh sang một bên”
Mọi người tránh sang hai bên như rẽ nước.
Tuyên Giác cũng lùi lại bên đường theo đám đông, cung kính cúi đầu.
Thấp thoáng nghe thấy tiếng thì thầm bàn tán:
“Công chúa? Dưới gối thánh thượng của chúng ta còn có công chúa ư?”
“Chắc là có rồi, tiên hoàng hậu không phải đã sinh một bé gái sao…”
“Nhưng sao chưa từng nghe thấy?”
“… ta cũng chưa từng nghe, chỉ biết tới quận chúa An Vinh thôi, công chúa kiểu gì mà chẳng ai hay biết vậy”
Tuyên Giác đứng im một chỗ lắng nghe.
Những thường dân này có lẽ không biết, nhưng chàng sinh ra trong gia đình thế gia, cha lại làm quan trong triều, nên có biết được đôi chút.
Tiên hoàng hậu bị thích sát qua đời năm Minh Quang thứ mười hai, đương kim bệ hạ đau buồn không thôi, đổi nên hiệu thành Thái Nguyên.
Còn vị công chúa mà tiên hoàng hậu sinh cũng vì gặp thích khách mà bị thương hay trúng độc gì đó, ngay trong đêm được đưa ra khỏi thành điều trị.
Mấy năm nay vẫn ở lại ngoại ô.
Cũng vì lẽ đó, thiếu nữ đứng đầu trong kinh vài năm gần đây không phải công chúa, mà là quận chúa An Vinh.
Nói mới nhớ, vị điện hạ này không phải sớm đã được ban phong hào rồi sao?
Là…
Tuyên Giác bất chợt không nghĩ ra, lông mày hơi cau lại.
Bỗng, chàng nhìn thấy hai miếng ngọc bội trên eo mình, tim đập mạnh một nhịp.
À, là “Nhĩ Ngọc”.
Cũng có một chữ “Ngọc”.
Nhĩ Ngọc kết hợp lại thành chữ “tỷ”, biểu tượng của đế vương, đây quả thực là một phong hào vô cùng tôn quý.
Mà chiếc xe giá và đám tùy tùng kia cũng thể hiện tình yêu thương của hoàng thượng đối với vị công chúa này, Tuyên Giác chỉ liếc qua, không quan sát tỉ mỉ.
Chàng chỉ loáng thoáng nhìn thấy một bóng hình màu đỏ đang ngồi bên trong.
Chiếc xa giá đó rất xa hoa lộng lẫy, tiếng chuông kêu lanh lảnh, màn che được buông xuống, phía trước có mười hai người kéo, phía sau có mười hai người đi sát theo, hai cánh quạt lớn từ lông chim, bốn khung giá xung quanh để ngăn cản đám đông, mở đường.
E rằng xa giá của đương kim thánh thượng cũng không xa hoa đến nhường này.
Sau khi xe ngựa đi qua, tiếng chuông tiến lại gần.
Xa giá đi qua trước mặt, cách Tuyên Giác không tới năm thước.
Đuôi áo tung bay theo làn gió, quét qua hai miếng ngọc trên eo chàng, rồi lặng lẽ rơi xuống.
Giống như một giấc mộng xa xăm.
Tuyên Giác không kìm được mà ngẩng đầu.
Khoảng cách lúc này rất gần, có thể nhìn rõ được đường nét thiếu nữ ngồi bên trong.
Nàng đeo khăn che mặt, không thấy rõ dung mạo, chỉ có đôi mắt đang thẫn thờ ủ rũ nhìn về phía trước.
Phía trước là con phố Chu Tước rộng rãi trống trải, kinh thành không hề thay đổi, cuối phố là tường vây màu tím của hoàng cung.
Người ngồi sau bức rèm có vẻ rất buồn chán vì phải ngồi im như một con rối gỗ, như cảm nhận được ánh mắt của chàng, bỗng nhiên nàng nghiêng đầu nhìn sang.
Tuyên Giác không kịp thu lại tầm mắt, cứ thế chạm phải ánh mắt nàng.
Cây liễu bên kia đường vô cùng to lớn, cành lá sum suê, nóc xa giá sượt qua tán lá, bóng râm mờ nhạt phủ lên trên.
Bên trong, thiếu nữ sững lại một hồi, khi chàng đang bối rối, đôi mắt đó cong lên, nâng tay che miệng.
Nàng như thể đang cười.
Đợi đoàn xe giá cùng tùy tùng đi xa, tiếng mở đường cũng trở nên thấp thoáng, Tuyên Giác mới chậm rãi hồi thần, một lần nữa ngẩng đầu lên.
Chàng bỗng nhớ ra, chàng chỉ biết phong hào của vị điện hạ này, không biết tên.
Tuyên Giác vốn chỉ coi đó là một cuộc gặp gỡ vô tình, không cố ý tìm hiểu thêm.
Nhưng chàng vẫn mau chóng biết được tên của nàng.
Đó là một buổi trưa gần một tháng sau, Thích Văn Lan tới tìm chàng chơi cờ, thở hồng hộc ngồi xuống ghế, nói: “Mẹ kiếp, Tạ Trùng Tự hồi kinh rồi. Ta hôm nay mới biết tin”.
Nói rồi, nhặt một con cờ đen, nhanh như chớp hạ xuống bàn cờ mà Tuyên Giác đang tự chơi một mình.
Tuyên Giác rót trà cho hắn, đẩy tới, cất giọng hỏi: “Tạ Trùng Tự? Ai vậy?”
Họ Tạ, có lẽ là một vị quận chúa nào đó?
Thích Văn Lan nhìn hắn bằng ánh mắt cổ quái: “Ngươi không biết?”
Sau đó lại nghĩ ra: “À đúng, ngươi sao biết được. Trước năm Thái Nguyên, ngươi không sống ở Vọng Đô nên đã bỏ lỡ. Tạ Trùng Tự là cái người vừa mới hồi kinh gần đây”.
Hắn hất cằm về phía hoàng cung phía bắc, sau đó duỗi ra năm ngón tay ra, nói: “Cũng chính là Nhĩ Ngọc điện hạ, kẻ hay gây chuyện mà cha ngươi ít nhất đã năm lần dâng sớ chỉ trích đó”.
Tuyên Giác: “…”
Thích Văn Lan giục chàng: “Mau đánh đi! Tới ngươi rồi!”
Tuyên Giác dừng mạch suy nghĩ, thong thả chặn đường rút lui của quân đen, bỗng cất tiếng hỏi: “Ngươi và vị điện hạ đó thân thiết lắm sao?”
Thích Văn Lan tuy thẳng thắn hấp tấp, nhưng không phải kẻ tùy tiện, nếu không thân quen, hắn sẽ không gọi thẳng tên ra như vậy. Nghiêm túc mà nói, đây có thể quy vào tội bất kính với hoàng gia.
“Ừ, hồi nhỏ thi thoảng chơi cung nhau, sau này nàng ta tới Quỷ Cốc trị thương…” giọng nói Thích Văn Lan ngừng lại, tự biết mình lỡ miệng, nhưng ngước lên thấy sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường, lại nghĩ tới việc Tuyên Giác vốn kín miệng, có thể tin tưởng, vậy là tiếp tục chậm rãi nói, “có vài lần ta đi cùng đoàn quân tiếp tế, gửi thư cho nàng ta giúp bệ hạ. Coi như thân quen”.
Hắn bực bội gãi đầu, hạ cờ càng lúc càng ẩu, nói: “Cũng chính vì thân nhau, nàng ta hồi kinh cũng không báo với ta, nên ta mới tức chết! Hơn nữa, với tính cách nàng ta… nhất định sẽ phải chịu thiệt trước đám quý nữ kinh thành”.
Nghe nhắc tới Quỷ Cốc, Tuyên Giác liền hiểu.
Trong Quỷ Cốc có rất nhiều người giỏi y thuật, nhưng tính cách họ cổ quái khác thường, yêu ghét tùy hứng.
Vậy nên, cho dù bọn họ có thể cải tử hoàn sinh thì vẫn bị người đời xa lánh.
“Ngươi nghĩ mà xem, lúc nhỏ nàng ta đã ương bướng, nay lại ở Quỷ Cốc ba năm, đám người trong kinh chịu được vị tổ tông đó mới lạ. Dù gì cũng nên báo trước ta một tiếng, ta quen thuộc cả trong cung lẫn ngoài cung, có thể giúp nàng ta tổng kết điểm mạnh yếu của kẻ địch đúng không?” Thích Văn Lan càng nói càng tức.
Tay vỗ bàn, uống cạn nửa chén trà còn lại.
Ngón tay Tuyên Giác kẹp một quân cờ trắng, nhẹ nhàng đặt xuống bàn cờ, không mặn mà nói: “Tập trung đánh cờ đi. Đừng ăn nói hàm hồ về quý nhân nữa”.
Thích quý phi được sủng ái, Thích gia cũng được thơm lây.
Thích Văn Lan đôi lúc ăn nói không suy nghĩ, cũng không đặt bất kì ai vào mắt.
Chàng là bạn hắn nên khi cần thì vẫn phải nhắc nhở vài câu.
Sau đó, chàng hạ quân cờ, nói: “Giết”.
Thích Văn Lan lúc này mới tập trung vào ván cờ, nhìn chăm chú một lúc, ủ rũ quăng quân cờ đi, nhận thua: “Là ta phân tâm, chơi ván khác đi”.
Chơi liền ba ván, Thích Văn Lan đều bị đánh bại. Hắn chống tay lên trán kêu than: “Thấy huynh đệ đang buồn, không nhường chút được sao?”
Tuyên Giác đặt viên ngọc trở lại hộp cờ, thong dong pha ấm trà, sau cùng mới nói: “Không phải ngươi không thích ta nhường sao? Hơn nữa… ngươi cứ tự mình đa tình làm gì? Cẩn thận chuốc phiền phức tới cho người khác”.
Lời nói có hơi sắc bén, Thích Văn Lan sững lại, nghe thấy Tuyên Giác lại nói: “Trong kinh không giống Quỷ Cốc, lớn lên cũng sẽ khác khi còn nhỏ, thêm nữa, gần đây trong triều biến hóa thất thường, ngươi nên cẩn trọng một chút”.
Thích Văn Lan ngẫm nghĩ trong giây lát, mới nghiêm túc nói tiếng cảm ơn, sau đó còn nói chuyện cùng Tuyên Giác một lúc, mời đứng dậy cáo từ.
Tuyên Giác vẫn ngồi lại, nhàn nhã thong dong rửa trà cụ, cất đi.
Lúc này, chàng và Tạ Trùng Tự chỉ là người xa lạ, ngẫu nhiên chạm mặt một lần mà thôi, chưa nảy sinh lòng ái mộ.
Chỉ có ấn tượng đôi chút…
Đôi mắt đó lanh lợi, cong cong như vầng trăng khuyết.
Vì vậy, tuy Tuyên Giác có hơi nặng lời với Thích Văn Lan, nhưng đều xuất phát từ đáy lòng.
Hi vọng hắn tỉnh táo trở lại.
Nhưng vị huynh đệ này vẫn cứ lao đầu vào.
Thi thoảng nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.
Còn Tạ Trùng Tự cũng càng lúc càng vang danh.
Trước đây, quận chúa An Vinh và tiểu thư tướng phủ thường được đám văn nhân hết lời ca tụng, nhưng chỉ sau một đêm, nhân vật chính được thi ca ẩn dụ đã đổi sang người khác.
Thế nhân dùng mẫu đơn để nói về công chúa Nhĩ Ngọc.
Tuyên Giác rất ít tham gia các buổi yến tiệc, khi nghe thấy Thích Văn Lan nhắc tới chuyện này, chàng có chút kinh ngạc.
Dẫu sao nàng ấy vẫn là thiếu nữ chưa tròn mười lăm, đâu nên dùng loại hoa quốc sắc thiên hương, vua của muôn loài hoa như mẫu đơn để ẩn dụ chứ.
Chàng không nén nổi sự kinh ngạc.
Cho tới tận hội săn mùa thu năm đó, chàng lần đầu được tận mắt chiêm ngưỡng bóng hình đỏ rực kia.
Áo đỏ ngựa đỏ, xinh đẹp rực rỡ.
Dung mạo nàng lạnh lùng kiêu ngạo, nhưng cử chỉ hành động lại thẳng thắn hiên ngang.
Hệt như một ngọn lửa.
Đừng nói mẫu đơn, ngay cả dùng kim ô để miêu tả về nàng cũng không xứng.
Nói ra cũng kì lạ, khi đó ý nghĩ đầu tiên của chàng là muốn hỏi lại câu hỏi kia của Thích Văn Lan.
Trong hơn một năm nay, ở trong cung hay trong kinh thành, nàng có từng chịu thiệt không?
Nàng ăn miếng trả miếng với chúng?
Hay chỉ cau mày không thèm đặt trong lòng?
Cảm xúc của chàng hiếm khi trỗi dậy như vậy, đợi tới khi hồi thần, tên đã bay ra khỏi cung, ghim con thỏ đó xuống đất.
Chàng thầm than trong lòng.
Chỉ có thể mau chóng thúc ngựa tới, dùng roi da lấy mũi tên lông vàng của Tạ Trùng Tự lên, nói: “Điện ha, của người. Không biết điện hạ ở đây nên đã thất lễ, mong người thứ tội”.
Tạ Trùng Tự có đôi mắt hạnh rất xinh đẹp, lúc nhìn người ta, ánh mắt sáng lấp lánh, Tuyên Giác bị nàng nhìn thì có đôi chút mất tự nhiên, thấy nàng cười híp mí với mình, rồi lại quay đầu nói với Thích Văn Lan: “Văn Lan huynh, ta quyết định rồi, ta không cược cho huynh nữa, ta cược hắn”.
Thích Văn Lan sững sờ, sau đó căm phẫn nói: “Thấy sắc khinh bạn! Trọng sắc khinh bạn! ngươi, ngươi, ban nãy ngươi còn nói hắn là tên…”
Đứng trước mặt chính chủ, Thích Văn Lan khó khăn nuốt mấy chữ “tên ẻo lạ” kia lại, rồi tiếp tục lên án.
Tuyên Giác nghe một hồi, liền biết ban nãy Tạ Trùng Tự có ý gì.
Quý nữ trong kinh thành sẽ không cưỡi ngựa bắn tên, trong hội săn các nàng cũng chỉ ngồi một bên nói chuyện, cá cược xem ai sẽ dẫn đầu mà thôi.
Xem tình hình, ban đầu Tạ Trùng Tự cược cho Thích Văn Lan sao?
Vậy vừa rồi…
Chuyển sang cược cho chàng?
Tuyên Giác kìm nén sự giao động trong lòng, không ai nhìn ra được bất thường, chàng ho một tiếng: “… cái đó, hai vị, hội săn đã bắt đầu, chúng ta nên tranh thủ thời gian thôi”.
Sau khi hội săn mùa thu kết thúc, Tuyên Giác ôm con thỏ chỉ bị thương ngoài da, vẫn chạy nhảy hoạt bát kia vào lòng, sau đó hẹn ngày cùng Thích Văn Lan tụ tập, chuẩn bị rời đi.
Bỗng cảm thấy bên cạnh có ánh mắt hướng về phía mình, Tuyên Giác quay đầu lại, quả nhiên thấy Tạ Trùng Tự đang nhìn chằm chặp vào con thỏ trong ngực chàng.
Thấy chàng nhìn lại, Tạ Trùng Tự không né tránh mà còn chớp chớp mắt một cách tự nhiên.
Nhưng có lẽ vẫn đang đắn đo, nàng không mở miệng.
Tuyên Giác bất chợt nở nụ cười.
Công chúa mà phải cầu xin con mồi từ thần tử, quả thực mất hết thể thống, nhưng con thỏ trắng này vốn là của nàng mà.
Vậy nên, Tuyên Giác tặng nó cho Tạ Trùng Tự, nghe nói nàng đặt tên cho nó là “tiểu Hắc”, chàng cảm thấy rất buồn cười.
Ngoài ra còn thấy… đáng yêu.
Lần thứ nhất gặp mặt cách lần thứ hai gần hai năm. Lần thứ ba lại chỉ cách trước đó một tháng.
Yến tiệc cuối năm trong cung.
Chàng vốn không thích đông người, nhưng lần này là hoàng thượng triệu kiến.
Người muốn đánh một ván cờ cùng chàng.
Có lẽ gần đây chàng đã thắng quá nhiều ở Mặc Vận Lâu nên bị thánh thượng để mắt tới.
Yến tiệc linh đình, tuyết rơi dày đặc, có người gảy đàn, có kẻ vẽ tranh.
Tuyên Giác cùng hoàng thượng, Tạ Sách Đạo, đánh cờ trong đình viện giữa hồ.
Hồ Thái Cực chia thành hai nửa đông tây, có hình thù như trận đồ bát quái, còn ngôi đình này nằm ở trung tâm hồ.
Đình viện hình bát giác với phần mái màu đen, điểm xuyến cho mặt nước mênh mang, như một hạt bụi rơi vào cõi trần.
Bốn phía được đốt lò sưởi, vô cùng ấm áp.
Lúc này, tùy tùng đang lần lượt rót trà cho hai người đang mải mê đánh cờ kia.
Tưởng công công đưa tách trà tới bên tay Tạ Sách Đạo và Tuyên Giác, thấy hai người vẫn đang trầm tư suy nghĩ, không dám quấy rầy, chỉ mở nắp tách trà ra, thi thoảng lại kiểm tra độ nóng, thấy nguội liền đổi tách khác.
Tưởng Minh cũng hiểu chút ít về cờ, có thể nhìn ra được, quân trắng của Tuyên Giác đang chiếm thế thượng phong.
Hắn bất giác lau mồ hôi.
Đạo lí hầu hạ quân vương có rất nhiều quy tắc.
Ví dụ như đánh cờ, không thể thua quá thảm, cũng không thể thắng quá oanh liệt, phải nắm bắt được tâm tư hoàng đế.
Mỗi một trường hợp lại có một cách xử lí khác nhau.
Hôm nay, tâm tình bệ hạ không tốt lắm, quả thực không nên thắng người…
Bỗng, Tưởng Minh nghe thấy bên hồ có tiếng người truyền tới, quay đầu ra xem, liền thấy một bóng hình màu đỏ quen thuộc, hiển nhiên là Nhĩ Ngọc điện hạ.
… nhưng bên cạnh người là ai kia?
Quận chúa An Vinh sao?
Chỉ thấy Tạ Trùng Tự bước đi thong dong, một lúc sau mới quay đầu lại cau mày: “Biết sai rồi sao?”
Có lẽ vì tuyết đang rơi, cảnh vật yên tĩnh, hoặc cũng có thể do giọng nói của Tạ Trùng Tự thánh thót lanh lảnh, ở tận giữa hồ cũng nghe được rõ ràng.
“…”quận chúa An Vinh tuổi tác tương đương với Tạ Trùng Tự, cũng là một tiểu cô nương lanh lợi hoạt bát, nhưng lúc này đây nàng ấy đang cúi đầu, lí nhí nói câu gì đó, Tạ Trùng Tự nghe xong liền cau mày.
Lập tức lạnh lùng cất tiếng: “Muội cũng lắm lí lẽ nhỉ”.
Tạ Trùng Tự dùng tay gấp quạt lại, gõ nhẹ lên đầu quận chúa An Vinh, rồi nói tiếp: “Trong yến tiệc trưa nay, phụ hoàng chỉ vào Trần Mặc rồi dạy dỗ ta “xem người ta cầm kỳ thi họa xuất sắc biết bao”, ta còn không phản bác. Nàng ta làm gì muội mà muội lại đập đàn của người ta? Còn âm thầm ngáng chân người ta nữa?”
“… muội không nhìn nổi điệu bộ đó của nàng ta thôi” quận chúa An Vinh lẩm bẩm, bị vị đường tỷ mà mình yêu quý mắng, nàng ấy buồn đến mức phát khóc, “loại người như nàng ta, trước mặt mọi người ra sức thể hiện, chiếm trọn vinh quang, sau lưng lại nói xấu tỷ…”
Tạ Trùng Tự vỗ quạt vào lòng bàn tay, sau khi nghe hết lời của quận chúa An Vinh, thở dài một tiếng: “Nàng ta là người thế nào, nàng ta gây khó dễ cho ta thì liên quan gì tới muội? Hôm nay nàng ta khiêu khích muội sao? Đang yên đang lành lại đập vỡ đàn, muội nói xem việc này có đúng không? Hơn nữa, muội đi guốc trong bụng nàng ta sao mà biết nàng ta nói xấu ta? Chỉ là mấy lời đồn thổi vô căn cứ, nếu đó là giả thì không phải muội đã bắt nạt nàng ta sao? Cuối cùng…”
Tạ Trùng Tự dừng lại đôi chút, xoa đầu quận chúa An Vinh, nói: “Ta cũng đâu sống nhờ vào lời bàn tán của kẻ khác. Ta thế nào, ta ra sao thì phải do đích thân ta nói mới tính. Muội không bận lòng, kẻ khác cũng sẽ không có cớ đánh giá. Ta biết muội có ý tốt, nhưng lần sau đừng bốc đồng như thế nữa, hiểu chưa?”
Quận chúa An Vinh lúc này mới thôi nức nở, gật đầu nói: “… vậy muội đi xin lỗi nàng ta”.
Nàng ta ôm lấy cánh tay Tạ Trùng Tự, nở nụ cười hồn nhiên, cùng nhau rơi đi.
Tưởng Minh mải mê lắng nghe, lúc này mới hồi thần trở lại, nghe thấy Tạ Sách Đạo cười lớn, tâm tình như thể đã tốt lên nhiều, người bất đắc dĩ lắc đầu: “Nha đầu Trùng Trùng này bắt nạt hết người này tới người khác. Tưởng Minh, không phải năm ngoái ngươi còn nói với trẫm, quận chúa an Vinh không thích Trùng Trùng sao? Nhìn đi, không phải rất nghe lời sao?”
Tưởng Minh cười ha ha rồi nói: “Điện hạ giống người và nương nương, luôn công bằng với tất cả mọi người, đương nhiên sẽ được yêu mến”
Hắn vừa nói, vừa thay trà cho Tạ Sách Đạo, thuận tiện liếc qua bàn cờ thì kinh ngạc phát hiện, Tuyên Giác ban nãy còn chiếm thế thượng phong mà lúc này đã yếu thế đi.
Sau khi đổi xong trà, Tưởng Minh lại tỉ mỉ xem xét, hóa ra là do Tuyên Giác đã đi sai vài nước, tâm tư chàng có vẻ không ổn định, hồn đã bay đi đâu mất tiêu.
Tưởng Minh: “…”
Đánh thắng cờ thì không ổn lắm, nhưng cũng không thể lừa gạt bệ hạ vậy chứ!
May mà sắc mặt Tuyên Giác vẫn như thường.
Chàng im lặng quan sát thế cờ, suy ngẫm một hồi, rồi bày bố lại thế cục.
Vừa rồi chắc hẳn không để tâm vào ván cờ, nhưng có thể cứu vãn, cuối trận cầm hòa.
Chàng tính toán rất tốt, quân trắng và quân đen ngang nhau, không phân được thắng thua.
Tạ Sách Đạo cũng không để ý tới mấy nước cờ hỗn loạn vừa rồi của chàng, không mặn không nhạt khen ngợi vài câu, sau đó nở nụ cười đứng dậy, nói với Tưởng Minh: “Ha ha đi thôi, qua xem Trùng Trùng thế nào. Nha đầu này thế mà lại nhớ lời dạy của trẫm, lại còn mang ra để bắt nạt người ta. Tuyên Giác, ngươi đi làm việc của mình đi”.
“Cung tiễn bệ hạ” Tuyên Giác cung kính nói.
Sau khi Tạ Sách Đạo đi khỏi, Tuyên Giác nhìn lại bàn cờ một lúc, nhặt vài quân cờ lên, chậm rãi thở dài.
Quả nhiên không nên phân tâm.
Càng không nên…
Chàng đã hơi động lòng rồi.
Nhưng tiếng lòng của Thích Văn Lan ai nấy đều hiểu, khi cùng hắn nói chuyện, hai ba câu là lại nhắc tới Tạ Trùng Tự.
Chàng không thể cướp người trong lòng của người khác được.
Chỉ đành tránh càng xa càng tốt vậy.
Cũng may mà chàng và nàng trước nay chưa từng qua lại.
… ngoại trừ Thích Văn Lan luôn miệng nhắc tới.
Có một lần Thích Văn Lan tìm chàng uống rượu, cuộc nói chuyện của văn nhân không thể tách khỏi bàn rượu, Tuyên Giác không từ chối, sau khi uống nửa vò rượu, cả hai đều ngà ngà say.
Thích Văn Lan bắt đầu lảm nhảm: “Trong Chuyết Chính Viên có rất nhiều động vật hoang dã. Hôm qua, ta tới đó thấy ở phía đông có ba con chim ưng, nhìn rất oai phong, móng vuốt sắc nhọn. Hỏi ra mới biết là Tạ Trùng Tự nuôi. Giỏi thật đấy, ta còn chẳng biết thuần phục chúng…”
“… đừng nói nữa” Tuyên Giác ấn tay lên mi tâm, hơi rượu bốc lên, chàng sắp say khướt rồi.
“Hả?” tên ngốc Thích Văn Lan không hiểu, “ngươi nói gì?”
“Ta nói, đừng nói nữa, Đừng nhắc tới nàng ấy, được không?” Tuyên Giác bỏ tay xuống, ánh mắt cố kiềm nén, “ta không muốn nghe”.
Thích Văn Lan gãi đầu: “Được được được, không nói, không nói nữa. Ngươi nói ta cũng phải ha, huynh đệ ra ngoài tụ tập mà cứ nhắc tới nữ nhân, ha ha ha, lần sau không nói nữa, Nào uống đi!”
Tuyên Giác vừa cảm thấy nhẹ nhõm, nhưng cũng lại thấy mất mát, tiếc nuối, chàng thở dài một hơi.
Chàng chỉ muốn cách càng xa càng tốt thôi.
Nếu không, một khi tới gần, sẽ không nhịn được mà càng muốn tiến lại gần hơn.
Một khoảng thời gian về sau, chàng cố ý lạnh nhạt, giữ khoảng cách với Thích Văn Lan.
Chàng không hề biết chuyện Thích Văn Lan và Tạ Trùng Tự tới Giang Nam.
Do vậy, lúc chuẩn bị lên thuyền hoa, nhìn thấy Thích Văn Lan, Tuyên Giác hơi sững sờ, đến khi nhìn thấy Tạ Trùng Tự ăn vận như một công tử đứng bên cạnh, hô hấp của chàng như đình trệ, sau đó mới gật đầu chào hỏi.
Đã rất lâu rồi chưa gặp nàng ấy.
Như thể vì đã rời xa kinh thành, không cần chú ý các lễ tiết rườm rà, nên Tạ Trùng Tự thư thái hơn rất nhiều, cả người dựa lên quầy tính tiền, nghe thấy lời của chàng thì ngước mắt lên, vô cùng vui mừng, cười nói: “Vậy cảm ơn nhé”.
Tuyên Giác biết, có một người nữa cũng đang vui mừng, đó là chàng.
Chàng không nhịn được, dành cả một đêm trên thuyền cùng nàng, bằng không, với tính cách Tuyên Giác, nếu ngày hôm sau có việc, chàng sẽ không thức trắng đêm.
Khi nghe thấy Thích Văn Lan nói nàng trúng gió phát sốt, chàng vội vã chạy tới.
Thích Văn Lan quả thực rất lo lắng: “... mẹ ơi, nàng ta trúng gió độc, một hai năm gần đây cơ thể mới tốt lên, vậy mà lại bị trúng gió”.
Tuyên Giác không nói gì, chần chừ một lúc, cuối cùng vẫn bắt mạch cho nàng.
Đến khi nhìn thấy những vết thương dày đặc trên cổ tay nàng, chàng sững lại.
Những vết này đều là dấu răng, có lẽ nàng không nhịn nổi nên tự cắn tay mình.
Sinh ra trong hoàng gia, có rất nhiều chuyện thân bất do kỷ.
Cho dù Tạ Trùng Tự có được yêu chiều thì cũng sẽ gặp phải trắc trở, phong ba, cũng sẽ có lúc tuyệt vọng, không biết phải làm gì.
Ngón tay Tuyên Giác run lên nhưng vẫn trấn tĩnh bắt mạch cho nàng, tìm về ba bốn cung nữ, để bọn họ đưa Tạ Trùng Tự đi ngâm nước nóng cho ra mồ hôi, sau đó chàng canh giữ bên giường nàng cả đêm.
Chàng nghĩ, mình cần phải che dấu đi trái tim mình.
Chàng che giấu được một tháng, qua trung thu, ở Xuân Oanh Đề Hiểu, Thích Văn Lan đã trông thấy bức họa đó.
Khi đó Thích Văn Lan chỉ cúi đầu, không nói năng gì, nhưng ngày hôm sau liền tìm tới cửa, hắn hất tung cả bàn: “Ngươi có ý gì?”
Lúc đó, Tuyên Giác vẫn chưa chỉnh đốn lại mạch suy nghĩ, chàng ấn lên lông mày, không dám nói quá nhiều, cũng không dám phủ nhận, chỉ nói: “Như ngươi đã thấy”.
Không ngờ, sắc mặt của kẻ trước nay không làm sáng tỏ sẽ không bỏ cuộc như Thích Văn Lan lại biến đổi liên tục, không hiểu hắn nhớ tới điều gì, sau khi thốt ra vài câu khó nghe liền rời đi. Với tính khí của hắn, đây đã coi như quá dễ nói chuyện rồi.
Lần tiếp theo gặp lại Thích Văn Lan, hắn tới cướp ngục cứu chàng ra.
Thực lòng mà nói, hồi ức về những tháng ngày đó đã phai mờ trong tâm trí Tuyên Giác, giống như một giấc mộng hỗn loạn, rời rạc.
Chàng chỉ còn nhớ, gió tuyết đêm đó lạnh thấu xương, ác liệt dày vò chàng.
Tiếng gió bắc rít bên tai như thể tiếc than khóc của những linh hồn.
Tạ Sách Đạo ngồi ở trên cao, ngạo nghễ quyết định số phận của Tuyên gia, bố thí cho chàng một mạng.
Đêm đó… đã trở thành cơn ác mộng ám ảnh chàng.
Ám ảnh tới nỗi, sau này mỗi khi mơ thấy nó, chàng đều giật mình tỉnh giấc giữa đêm.
Sau khi tỉnh dậy, thấy người bên cạnh đang thở đều đều, lông mi khẽ động, dưới ánh trăng, nàng xa vời không chút chân thật.
Tuyên Giác nhìn bức thư được gấp lại, kẹp trong cuốn sách trên bàn.
Bên trong viết tất cả chân tướng về vụ án của Tuyên gia.
Cục diện chính trị của đại Tề hỗn loạn, đương kim hoàng thượng và thái tử đều độc đoán, tàn bạo như nhau, khiến bách tính phẫn nộ, người đời chỉ trích.
Tự nhiên sẽ có kẻ giang tay, muốn hợp tác cùng vị phò mã có cùng chung kẻ thù là chàng.
Phong ba đã âm thầm nổi lên từ lâu.
Tuyên Giác thu hồi ánh mắt, trong lòng chất chứa một mớ hỗn độn, chàng cúi đầu, hôn lên đôi mắt đang ngắm nghiền của Tạ Trùng Tự.
Công bằng mà nói, chàng không có hảo cảm với cha con Tạ Sách Đạo và Tạ Trị.
Bắt tay cùng những kẻ có dã tâm, âm thầm giúp đỡ chúng chiếm đoạt ngai vàng, mượn tay chúng giết người, Tuyên Giác chẳng hề có chút nao núng.
Trên thực tế, đây là một cuộc làm ăn có lãi. Vừa không phải lộ diện nhưng vẫn có thể báo thù.
Thân thế bi thảm của chàng, tính mạng của một trăm ba mươi hai người của Tuyên gia là sự bảo đảm tốt nhất.
Nhưng Tạ Trùng Tự sẽ không giữ nổi mạng nữa.
Trùng Trùng của chàng là người thông tuệ biết bao.
Có vị tân đế nào dám giữ lại mạng cho một vị công chúa tiền triều như nàng?
Trừ khi, người đăng cơ… là chàng.
Mưu kế cho dù được dàn dựng tỉ mỉ tới mấy, vẫn không cản được nàng xông vào cung, Tạ Trùng Tự thấy đôi tay đẫm máu của chàng.
Đôi mắt hạnh của nàng kinh hoàng tột độ.
Không biết vì sao, Tuyên Giác chợt nhớ tới ngày đó trên đường Chu Tước, đoàn xa giá hùng hậu nghênh đón công chúa trở lại kinh thành.
Cũng là một ngày xuân như hôm nay.
Dưới lớp màn che, đôi mắt nàng như phủ lớp sương mù, lung linh tuyệt sắc.
Còn hôm nay, đôi mắt ấy ướt đẫm lệ.
“Điện hạ, đừng nhìn hắn” Tuyên Giác thở dài rồi nói, “hãy nhìn ta”.
Nhìn ta.
Trùng Trùng.
Nàng hãy nhìn ta, được không?
Đừng nhìn Tạ Trị nữa.
Hắn… hoàng huynh của nàng, ca ca của nàng, đã bị ta giết chết rồi.
Nàng càng nhìn, sẽ càng hận ta thôi.
Cho tới hôm nay, Tuyên Giác mới biết…
Mọi chuyện không thể nào trở lại được nữa.
Bất luận là lần đầu gặp gỡ trên phố, hay hội săn mùa thu, mùa đông bên hồ, hay Giang Nam mưa đổ, hoặc ngay cả tháng ngày hạnh phúc sau thành hôn, bẻ cành cắm hoa, họa mày tấu nhạc…
Đều không thể trở lại được.
Tất cả như biến thành giấc mộng đã xa cách nhiều đời.
Tỉnh mộng, khắp nơi đều có hoa rơi, không ai đón lấy.