Kiếm Lai
Chương 442: Điềm báo (phần 2)
Trong phòng của Trần Bình An, Bùi Tiền đang chép sách.
Trương Sơn Phong cần cù tu hành trong phòng kế bên. Đạo sĩ trẻ tuổi này của Bắc Câu Lô Châu, tự đánh giá là tư chất bình thường. Năm xưa sư phụ chỉ thương hại hắn không chỗ để đi, mới miễn cưỡng thu làm đệ tử thân truyền. Hơn nữa đường tu hành sau này cũng chứng minh ánh mắt của sư phụ hắn không sai, Trương Sơn Phong quả thật tiến triển chậm chạp, hôm nay còn chưa bước vào năm cảnh giới trung.
Có điều Trương Sơn Phong tâm tính kiên trì, chưa từng nhụt chí, thỉnh thoảng tỏ ra mất mát, chỉ là phản ứng đối với bản lĩnh không tốt của mình mà thôi. Trong chuyện này thái độ của hắn rất giống với Trần Bình An, chẳng qua là đường dưới chân tự mình đi, chỉ cần không so sánh với người khác, sẽ không quan tâm thiên phú tốt xấu nữa, ngược lại có thể đi một cách kiên định trầm ổn.
Cái gọi là thiên phú tố chất của luyện khí sĩ rất có nghiên cứu, huyền cơ đều nằm ở hai chữ “bẩm sinh”. Thiên phú cao thấp sẽ quyết định động phủ mở ra lớn hay nhỏ, dung nạp linh khí nhiều hay ít.
Ngoại trừ chuyện này, thiên phú cao thấp cũng quyết định tốc độ hấp thu nhanh hay chậm. Trong sự nhanh chậm đó, còn có mức độ tinh luyện linh khí, sẽ quyết định xem là khe suối róc rách đáng thương, hay là sông lớn cuồn cuộn khiến người ta kinh ngạc. Sau khi nghiên cứu thiên phú, mới có thể tiến một bước nghiên cứu tình trạng cao thấp của buồng đan, cùng với phẩm chất của nguyên anh trong tương lai.
Hôm nay Trần Bình An thường luyện tập tư thế trời đất kỳ quặc kia, dùng ngón tay chống xuống đất. Có điều luyện quyền lâu như vậy, hắn cũng nghĩ ra được một chút đường lối. Chẳng hạn như đồng thời luyện ba thế Hám Sơn quyền, dùng thế trời đất để đi thế sáu bước, một tay bấm pháp quyết, trong lúc đó lại vận chuyển kiếm khí Thập Bát Đình.
Đúng là một chân trời mới.
Có điều cũng phải trả giá một chút. Trên đường hẹp giữa rừng núi xung quanh không người, Trần Bình An thường “đi” sai đường, lệch khỏi con đường mà mọi người đang đi, ngã vào khe suối hoặc rơi xuống sườn núi.
Sau đó vẫn là Bùi Tiền nghĩ ra một biện pháp ngu ngốc, buộc dây thừng vào đầu gậy leo núi, lại cột vào hồ lô nuôi kiếm bên hông Trần Bình An. Bùi Tiền đi ở phía trước, kéo theo Trần Bình An, đương nhiên hôm nay cô cũng phải luyện tập sáu bước đi thế.
Một lớn một nhỏ, một trước một sau đi tới như vậy, quả là người cùng đường đúng như ý nghĩa.
Lúc này Trần Bình An đang trồng chuối “đi” vòng quanh bàn.
Bùi Tiền chép sách xong, đã nhìn thế trời đất của Trần Bình An vô số lần, nhưng vẫn cảm thấy rất thú vị.
Trần Bình An lộn người lại, hít thở sâu một hơi.
Tại thành Lão Long, sau khi bị Thuyền Nuốt Kiếm của Đỗ Mậu “một kiếm” xuyên bụng, đến bến thuyền Phong Vĩ, rồi đến Kim Quế quán nước Thanh Loan này, thực lực của hắn từ cảnh giới thứ ba đã dần dần khôi phục đến cảnh giới thứ tư. Muốn đạt đến cảnh giới thứ năm đỉnh cao, còn phải dựa vào đi thế và rượu thuốc tiểu luyện, cùng với nghỉ ngơi không ít thời gian.
Chuyện này có lợi cũng có hại, cái hại đương nhiên là trì hoãn tốc độ bước vào cảnh giới thứ sáu, chỗ tốt lại là cơ sở cảnh giới thứ năm sẽ vững chắc hơn.
Chu Liễm đã từng nói đùa, cho dù không dựa vào ngoại vật, hai bên dùng thực lực của võ phu thuần túy, Trần Bình An vẫn có thể dùng cảnh giới thứ năm đỉnh cao của hắn, chiến thắng cảnh giới thứ sáu đỉnh cao của bốn người bọn họ.
Đối với chuyện này, Tùy Hữu Biên xì mũi coi thường, Lư Bạch Tượng lại khá đồng ý. Còn như Ngụy Tiện vốn khó đoán, khi đó đang bận tán gẫu với Bùi Tiền.
Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, kiểm tra nội dung Bùi Tiền sao chép, sau khi xác nhận không miễn cưỡng qua loa, mới ra hiệu cho cô bé có thể đi chơi.
Bùi Tiền lặng lẽ nói:
- Sư phụ, con cảm thấy những cây quế phía sau đạo quán, kém xa lá quế cành quế mà dì Quế tặng cho chúng ta, sao những đạo sĩ kia lại xem như bảo vật? Còn nói khoác mà không biết ngượng, bảo là “trồng trên cung trăng” gì đó. Nếu đây là con cháu đời sau của cây quế trên cung trăng, vậy dì Quế của chúng ta còn không phải là thần tiên trên đó à?
Trong lòng Trần Bình An khẽ động, nói:
- Không được nói xấu sau lưng người khác.
Bùi Tiền “à” một tiếng.
Trần Bình An đột nhiên cười lên, nói:
- Có điều ta cảm thấy ngươi nói không sai.
Bùi Tiền tươi cười rạng rỡ:
- Sư phụ cũng cảm thấy như vậy đúng không? Con đã nói rồi mà.
Trần Bình An ngưng cười, dặn dò:
- Cho nên lần sau gặp lại dì Quế, phải lễ độ hơn.
Bùi Tiền gật đầu nói:
- Đương nhiên rồi, dì Quế là người mà con thật lòng yêu mến.
Trần Bình An trêu chọc:
- Còn đạo đồng nhỏ của Kim Quế quán cho ngươi mượn ô che mưa thì sao?
Bùi Tiền đập bàn một cái, nổi nóng nói:
- Tên này rất phiền phức, nếu con và hắn gặp nhau trong ngõ hẹp, không có người ngoài ở đó, con muốn đánh cho cha mẹ sư phụ hắn cũng không nhận ra.
Trần Bình An cười nói:
- Bây giờ biết phiền phức rồi à? Ngươi ngẫm lại xem, mình đã quấy rầy Ngụy Tiện và Lư Bạch Tượng thế nào?
Bùi Tiền mở to mắt, suy nghĩ cả buổi, đành phải lấy lá bùa bảo tháp trấn yêu mà mình thích nhất ra, dán vào trên trán, thở dài nói:
- Nói như thế, lão Ngụy và Tiểu Bạch đúng là đáng thương.
Trần Bình An gõ đầu một cái, giả vờ cả giận nói:
- Ngươi mới biết à? Trong sách có nói “quân tử phải kiểm điểm bản thân nhiều lần”, ngươi hãy tự xét lại mình một chút.
Bùi Tiền ôm đầu, đột nhiên đứng lên, chạy đến cửa phòng, quay đầu cười nói:
- Sư phụ, con đi nói với lão Ngụy và Tiểu Bạch một tiếng. Lần sau ra chợ, con sẽ móc tiền túi, mua cho bọn họ mỗi người một xâu mứt quả gì đó.
Sau khi Bùi Tiền rời đi, Trần Bình An bắt đầu suy nghĩ chuyện luyện hóa vật bản mệnh thứ hai.
Còn về thân xác dương thần của Đỗ Mậu tương đương với kim thân cảnh giới Tiên Nhân, hắn quyết định chờ đến thư viện Sơn Nhai Đại Tùy, hỏi ý kiến của Thôi Đông Sơn vốn tinh thông chuyện này, sau đó mới đưa ra quyết định.
Từ đáy lòng Trần Bình An không tin tưởng tính cách của vị “thiếu niên quốc sư” này, nhưng dù sao vẫn tin tưởng học vấn kiến thức của đồ đệ đầu tiên của Văn Thánh năm xưa.
Lần này gặp lại Trương Sơn Phong, Trần Bình An đã thỉnh giáo không ít chuyện tu hành, nhất là những chuyện liên quan đến luyện hóa vật bản mệnh. Trương Sơn Phong đương nhiên là nói hết những gì mình biết.
Mặc dù tu vi của Trương Sơn Phong không cao, nhưng ánh mắt và kiến giải đều không tầm thường, có lẽ là do xuất thân từ tiên gia chính thống, dù sao sư phụ của hắn cũng là thiên sư khác họ của núi Long Hổ. Tuy nói cảnh giới của thiên sư khác họ cũng có cao có thấp, nhưng đạo nhân có thể được ghi vào gia phả cao quý của phủ Thiên Sư sẽ không đơn giản.
Trần Bình An lấy một bình rượu hoa quế ra, tìm một cái ly, uống rượu một mình.
Theo như Trương Sơn Phong nói, ngay cả khi tài lực và cơ duyên không phải là vấn đề lớn, vật bản mệnh cũng không hẳn càng nhiều càng tốt, mà là phải tập hợp đủ ngũ hành.
Một vật bản mệnh tương tự bình sứ xanh của trâu đất màu vàng, dùng để trợ giúp hấp thu linh khí trời đất, đây là thứ nhất định phải có. Một món dùng để chém giết công phạt, chẳng hạn như phi kiếm bản mệnh của kiếm tu, chính là cực hạn của vật bản mệnh công phạt trên thế gian. Một món dùng để phòng ngự, công hiệu tương tự pháp bào Kim Lễ, giáp viên Binh gia.
Một vật một tấc hay một thước, giống như kho vũ khí một tấc hay mộ kiếm một thước. Có điều đồ vật quý hiếm như vậy, gần như không thể gặp, càng không thể cầu. Cuối cùng là một món đồ trấn áp nuôi dưỡng trong khiếu huyệt bản mệnh, vật này bẩm sinh có sức chấn nhiếp với yêu ma quỷ quái, hơn nữa có thể không ngừng tăng trưởng dương khí bản thân. Khi đi qua những nơi âm tà khó đoán, có thể khiến cho chủ nhân nước lửa bất xâm, dơ bẩn tránh xa.
Trương Sơn Phong còn nói luyện hóa vật bản mệnh là con dao hai lưỡi. Đã là vật bản mệnh, một khi bị tổn hại sẽ khiến cho cơ sở đại đạo lung lay, hậu quả không thể tưởng tượng. Hơn nữa mỗi vật bản mệnh phải chiếm cứ một khiếu huyệt phủ đệ, một khi thật giả lẫn lộn, hoặc là không suy nghĩ tuyến đường linh khí vận hành, sẽ dễ khiến cho thuộc tính xung khắc, làm trở ngại luyện khí sĩ tu hành, thậm chí có thể tẩu hỏa nhập ma.
Cuối cùng Trương Sơn Phong nói, gom đủ vật bản mệnh ngũ hành là điều mà tất cả luyện khí sĩ ngoài kiếm tu đều ước mong, nhưng không cần cố hết sức theo đuổi chuyện này, bởi vì quá hao tốn tiền thần tiên, quá coi trọng cơ duyên. Thông thường mà nói, có ba vật bản mệnh phẩm chất khá tốt là đủ rồi, một công một thủ, cùng với một món trợ giúp luyện khí sĩ hấp thu tích lũy linh khí. Phần lớn luyện khí sĩ năm cảnh giới trung trong thiên hạ đều như vậy, trừ khi là địa tiên mới theo đuổi nhiều hơn.
Nghe Trương Sơn Phong giảng giải, Trần Bình An đã thu được rất nhiều lợi ích.
Bên trong hộp gỗ màu xanh kia, nghe nói có “pháp ấn bảo hộ thành hoàng quận Yên Chi nước Thải Y”, do đại thiên sư đời nào đó của núi Long Hổ tự mình khắc thành. Từ khi lấy được pháp ấn tới nay, Trần Bình An chưa từng mở hộp gỗ màu xanh ra lần nào. Hắn quyết định dùng nó làm lễ vật chia tay, tặng cho vị thiên sư khác họ tương lai của núi Long Hổ là Trương Sơn Phong.
Thành hoàng gia Thẩm Ôn của quận Yên Chi rất coi trọng pháp ấn này, Trần Bình An suy đoán rất có thể là một món nửa tiên binh. Thẩm Ôn từng chính miệng nói, dùng ấn này phối hợp với ngũ lôi chính pháp đích truyền của núi Long Hổ, sẽ có uy lực kinh người.
Ban đầu pháp ấn bị phong kín trong lầu thành hoàng, vẫn ngăn cản được tà khí của bãi tha ma rộng lớn bên ngoài quận thành Yên Chi, có thể thấy cấp bậc của nó cao thế nào, chắc chắn không chỉ là pháp bảo.
Trần Bình An hơi do dự, không biết có nên luyện hóa văn mật màu vàng của thành hoàng gia quận Yên Chi nước Thải Y hay không.
Sở dĩ do dự, là vì lúc trước trong trận chiến ở nước Thải Y, hắn đã lấy được một cái chén trắng vẽ hình Ngũ Nhạc nước Cổ Du, có thể tạo ra đất xã tắc năm màu. Hắn đã nghe theo đề nghị của Từ Viễn Hà, không bán nó cho phường Thanh Phù. Trần Bình An đang suy nghĩ, có nên dùng chén trắng lợi nhuận hàng năm là “năm đồng tiền hoa tuyết”, làm vật bản mệnh ngũ hành thổ của mình hay không.
Hôm nay kỵ binh Đại Ly xuôi nam đã là thế như chẻ tre. Phía bắc có thần Bắc Nhạc Ngụy Bách ở núi Phi Vân quê nhà mình, phía nam hình như là Nam Nhạc mới của Đại Ly do Phạm Tuấn Mậu trấn giữ. Một khi chuyện này trở thành sự thật, lãnh thổ của vương triều Đại Ly sẽ trải khắp một châu, đất năm màu sẽ trở nên cực kỳ quý giá, đến lúc đó triều đình Đại Ly nhất định sẽ kiểm soát rất chặt chẽ.
Nếu bây giờ Trần Bình An có thể xác định vị trí ba ngọn núi Nhạc còn lại ngoại trừ nam bắc, tập hợp đủ đất năm màu, lại tìm một món đồ thích hợp để chứa, lợi nhuận chắc chắn sẽ rất lớn.
Nhưng chỗ khó xử là không biết ba ngọn núi Nhạc kia nằm ở phương nào. Dùng thứ này làm vật bản mệnh, sẽ thu được lợi nhuận to lớn trong ngắn hạn, nhưng họa ngầm là phải phụ thuộc vào quốc thế Đại Ly lên hay xuống. Có điều đối với luyện khí sĩ dưới năm cảnh giới cao, chắc chắn là lợi nhiều hơn hại, có thể khiến bọn họ nhanh chóng trở thành địa tiên.
Lúc này Trần Bình An uống rượu, lại nhớ tới nhóm trinh sát Đại Ly trong gió tuyết, còn nghĩ đến hàng xóm Tống Tập Tân ở kế bên nhà tổ ngõ Nê Bình.
Sau khi uống cạn một chút rượu hoa quế cuối cùng trong ly, Trần Bình An quyết định từ bỏ chuyện luyện hóa đất xã tắc năm màu.
Đã có quyết định, hắn cũng không do dự nữa, chuẩn bị luyện hóa văn mật màu vàng. Có điều muốn chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa giống như ở thành Lão Long, khó như lên trời.
Trần Bình An đứng lên, đi tới bên cạnh cửa sổ, nằm trên thành cửa, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Chuyện này dù sao cũng không giống như luyện quyền, chỉ cần kiên trì bền bỉ, một ngày nào đó sẽ có thể đánh xong một triệu quyền.
Từ Viễn Hà gõ cửa đi vào. Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, lại lấy một ly rượu, hai người cùng uống.
Từ Viễn Hà cũng không nói chuyện quan trọng gì, chỉ hi vọng một ngày nào đó sẽ có tiệm sách chịu in quyển du ký núi sông của ông ta, kiếm được một chút vốn liếng.
Trần Bình An bèn lấy ra mấy thẻ trúc xanh có khắc chữ chi chít, ghi lại những gì nghe và thấy trên đường, đưa cho Từ Viễn Hà. Trong đó có những chiếc thuyền tiên gia to lớn như đảo Quế Hoa và rùa Sơn Hải của thành Lão Long, cùng với biển mây phía trên thành trì, tượng thần vũ sư của tông môn trên biển, giao long già làm mưa cố gắng rơi xuống biển gần khe Giao Long, những bức tranh kiếm tiên trong nhà Linh Chi núi Đảo Huyền, đường phi ngựa ở Kiếm Khí trường thành, đường Hảm Thiên ở Phù Kê tông Đồng Diệp châu, mặt trời mọc ở đỉnh Chiếu Bình bên ngoài thành Thận Cảnh....
Hai người uống rượu, thảo luận chi tiết về những kiến thức trên thẻ trúc, thời gian trôi qua trong bữa rượu.
Trong phòng kế bên, đạo sĩ trẻ tuổi Trương Sơn Phong vừa kết thúc tĩnh tọa thổ nạp, bắt đầu chậm rãi đánh quyền. Bộ quyền pháp này khác với phần lớn quyền pháp trong thiên hạ, chỉ cầu chậm không cầu nhanh, không thích hợp giết địch, đại khái chỉ có thể dùng để luyện quyền dưỡng sinh. Có điều Trương Sơn Phong cảm thấy rất phù hợp với bằng hữu của mình.
Bộ quyền pháp này là do hắn tự nghĩ ra, hôm nay chỉ là hình thức ban đầu, quyền lý đến từ những lời say của sư phụ và cảm ngộ của bản thân hắn. Cũng không biết Trần Bình An có chê bai hay không, có chịu học hay không.
- --------
Trong hoàng hôn ở kinh thành nước Thanh Loan, có hai vị nho sĩ áo xanh đường xa tìm đến, ngồi bên cạnh một chiếc bàn nhỏ có khá nhiều cặn dầu, đặt ở một gian hàng ven đường. Trên bàn có một cái ống trúc chứa đầy đũa trúc.
Trong đó có một vị nho sĩ gầy gò khoảng ba mươi tuổi, vốn quen thuộc với tính tình của đối phương, vì vậy nghiêm túc nói:
- Chu Cự Nhiên, trước tiên phải nói rõ, ta không ăn cay được.
Nho sĩ trẻ tuổi tên là Chu Cự Nhiên cười nói:
- Hầu Tử (con khỉ), bởi vì không ăn cay, cho nên ngươi đã bỏ lỡ rất nhiều thức ăn ngon của nhân gian.
Nho sĩ gầy gò bị gọi đùa là “Hầu Tử”, bất đắc dĩ lắc đầu.
Đoạn đường này thật sự khiến hắn kinh hồn bạt vía. Chẳng có cách nào, tên Chu Cự Nhiên này đúng là kẻ chuyên gây họa, đúng sai thị phi trong lòng tên này luôn mơ hồ hơn những hiền nhân khác của thư viện. Có điều may mà mình vẫn có thể chấp nhận được.
Lần này hoàng đế họ Đường nước Thanh Loan khăng khăng làm theo ý mình, muốn cử hành Phật Đạo tranh luận, bên thắng sẽ trở thành quốc giáo, địa vị còn cao hơn cả Nho gia.
Hiện giờ sự chú ý của thư viện Quan Hồ bọn họ đều tập trung vào thiên quân Đạo gia Tạ Thực của Bắc Câu Lô Châu, không rảnh chiếu cố chuyện ở nơi này. Nếu không Hầu Chính hắn và Chu Cự Nhiên, một quân tử và một hiền nhân, sẽ không phải “du lịch khắp nơi” ở nước Thanh Loan, mà là chạy thẳng tới hoàng cung, khiển trách vị hoàng đế họ Đường kia một phen rồi.
Chu Cự Nhiên gọi hai phần mì Phiến Nhi Xuyên (2) đặc sản địa phương, một phần thêm cay, một phần không cay, bắt đầu ăn với “Hầu Tử” đến từ thành Lão Long.
Hiền nhân trẻ tuổi ở bên ngoài thích tự xưng là Chu Cự, cuốn một đũa Phiến Nhi Xuyên bỏ vào trong miệng, nói hàm hồ không rõ:
- Nghe tiên sinh nói, lần này Phật Đạo tranh luận ở nước Thanh Loan có điểm mới mẻ. Đối ngoại thì nói là Phật môn và Đạo gia mỗi bên cử ra mười vị cao tăng và chân nhân, tranh cãi ở hoàng cung, xem bản lĩnh cãi nhau của ai lớn hơn. Nhưng chân chính quyết định thắng bại, lại là âm thầm sắp xếp một đạo sĩ và một nhà sư tranh luận với nhau, xem thử Phật pháp Đạo pháp của ai cao hơn.
- Bọn họ còn mời một lão nhân của họ Khương Vân Lâm làm quan tổng tài, lại nhờ hai vị địa tiên dùng thần thông quan sát toàn bộ quá trình. Đã phải phân ra thắng bại giữa kinh phật và đạo tạng (kho kinh sách của Đạo giáo), còn phải so sánh đối nhân xử thế và công lao khuyến thiện. Học vấn, tu thân, giáo hóa, vừa lúc so đấu ba trận.
Hầu Chính nhíu mày, đây là lần đầu tiên hắn nghe Chu Cự Nhiên nói đến nội tình này. Sau khi suy nghĩ một lúc, chân mày của hắn giãn ra, nói:
- Chẳng trách sơn chủ lại không tức giận. Đá ở núi khác có thể mài ngọc, hành động này của nước Thanh Loan, thực ra cũng không hoàn toàn là chuyện xấu.
Chu Cự Nhiên hiểu ngầm khẽ cười, cầm đũa chỉ chỉ vào nho sĩ đối diện, khen ngợi:
- Điểm này của Hầu Chính ngươi đúng là hợp với tính cách của ta, có thể nghĩ thoáng, hơn nữa còn nghĩ theo hướng tốt.
Hầu Chính lắc đầu không nói gì.
Chu Cự Nhiên hỏi:
- Thành Lão Long xảy ra chuyện lớn như vậy, ngươi không về thăm nhà một chút sao?
Hầu Chính vẫn lắc đầu:
- Đi cũng vô dụng. Gia phong tổ tiên họ Hầu truyền xuống vốn còn lại không nhiều, giống như ngọn đèn sắp tắt mà thôi. Ta đi chuyến này chỉ khiến cho ngọn lửa ở tim đèn sáng hơn một chút, sau đó sẽ tắt nhanh hơn, còn không bằng giữ nguyên dở sống dở chết như vậy. Chỉ hi vọng xuất hiện một vãn bối có thể gánh vác được, đến lúc đó ta sẽ giúp đỡ một tay.
Chu Cự Nhiên gật đầu nói:
- Vẫn là ngươi suy nghĩ chu đáo.
Hầu Chính cười khổ nói:
- Dù sao cũng sinh ra và lớn lên ở đó, ta có thể không nghĩ nhiều một chút sao?
Chu Cự Nhiên dừng đũa, hỏi:
- Ngươi ăn no chưa?
Hầu Chính nhìn cái tô trắng trống rỗng trước mặt đối phương, ngay cả nước cũng không còn lại chút gì, bèn không để ý tới Chu Cự Nhiên nữa, vùi đầu ăn mì.
Chu Cự Nhiên than vãn một tiếng, quay đầu gọi:
- Ông chủ, thêm một tô nữa... nhớ bỏ ít cay một chút, tiệm này của ông đúng là cay chết người không đền mạng.
Trên đường lớn có phu nhân đội khăn và cô gái tuổi xuân dạo chơi ngoại thành trở về. Chu Cự Nhiên thở dài nói:
- Mỹ nhân du xuân trở về, có một chút mùi mồ hôi, cộng thêm mùi hương thoang thoảng từ rừng núi ao hồ, thật là thơm.
Hầu Chính ngoảnh mặt làm ngơ.
Chu Cự Nhiên lại nói:
- Hay là ta cũng tham gia ván cờ này, dứt khoát khiến Phật Đạo tranh luận của nước Thanh Loan, biến thành một trận tam giáo tranh đấu nho nhỏ?
Lần này Hầu Chính trả lời rất nhanh, cũng không ngẩng đầu lên, hờ hững nói:
- Không được.
Chu Cự Nhiên đập tay xuống bàn, gọi:
- Ông chủ, cho thật cay vào!
- --------
Cách gian hàng hiền nhân và quân tử thư viện ngồi ăn Phiến Nhi Xuyên không xa, có một tòa Bạch Vân quán thanh danh không lớn. So với những đạo quán cổ xưa ở nước Thanh Loan, hở một chút là mấy trăm năm đến ngàn năm lịch sử, Bạch Vân quán này từ khi xây dựng đến nay chỉ hơn trăm năm. Mà những khu vực có phong thủy tốt ở kinh thành, đã sớm bị những đạo quán chùa chiền “tiền bối” kia đến trước lấy trước, phân chia hầu như không còn.
Quán chủ là một đạo sĩ trung niên, danh tiếng không nổi bật ở nước Thanh Loan. Nếu chỉ xem như một người tu hành thì càng không đáng nhắc tới, bởi vì ông ta còn không phải là luyện khí sĩ năm cảnh giới trung.
Bạch Vân quán chỉ lớn như miếng đậu hủ, buộc phải nằm gần một phường thị ồn ào. Trong quán vẫn có mấy cây cổ thụ, nhưng một chút của cải miễn cưỡng cầm ra được như vậy, lại gây cho Bạch Vân quán rất nhiều phiền phức.
Trẻ con ở phường thị gần đó thích thả diều, hay bị vướng vào cây to trong quán. Cho nên thường có phu nhân hoặc đàn ông dẫn con cái nhà mình khóc sướt mướt, đứng bên ngoài Bạch Vân quán mắng chửi. Có người còn xông vào đạo quán, trách mắng những tiểu đạo sĩ rụt rè kia, bảo bọn họ bắc thang trèo lên cây lấy lại con diều đứt dây.
Mỗi lần xảy ra chuyện này, quán chủ trung niên hình dáng tiều tụy kia đều sẽ rời khỏi thư phòng, nhưng chỉ dám mặt ủ mày chau đứng ở phía xa, mặc cho sư đệ hoặc đệ tử của mình đứng ra ngăn cản.
Có một lần đạo đồng nhỏ của Bạch Vân quán lén chạy ra ngoài, chơi thả diều với trẻ con hàng xóm quen biết, không cẩn thận cũng bị vướng vào cây trong quán. Hắn đấu tranh trong lòng một phen, thật sự tiếc con diều kia, đành phải kiên trì nói với đạo quán.
Kết quả lại bị quán chủ tóm lấy trút giận, đánh cho hắn thiếu chút nữa cái mông nở hoa. Có điều hôm đó đạo đồng nhỏ lại cười như nở hoa, bởi vì trong chăn của hắn không biết vì sao lại có thêm một con búp bê bằng sứ thèm thuồng rất lâu. Chuyện này khiến hắn có thể khoe khoang với những đạo đồng khác một thời gian rất dài.
Lúc này đã là chiều hôm thâm trầm, đạo sĩ trung niên trong thư phòng nhỏ ngẩng đầu lên. Bởi vì nhìn chăm chú vào những văn tự trong thời gian dài, khiến cho mắt của ông ta hơi nhức nhối.
Bốn vách của thư phòng có hai mặt là giá sách, ngoại trừ “đạo tạng” phong phú, còn xen lẫn không ít kinh Phật và kinh điển Nho gia.
Đạo sĩ trung niên đã xem kỹ những điển tịch này, chỉ riêng tâm đắc đọc sách trong những năm qua, đã viết đầy bản thảo hơn chín mươi vạn chữ.
Người khác tu hành là vì khinh thường vương hầu, ngạo mạn công khanh, vì chứng đạo trường sinh bất hủ, vì thoát khỏi lồng giam lớn của trời đất. Còn quán chủ của đạo quán nhỏ này, lại là vì có thể sống lâu thêm mấy năm, xem thêm một ít sách.
Thư tịch thánh hiền của tam giáo các nhà, đều muốn xem hết.
- --------
Mặc dù nhóm người Trần Bình An xem như đang ở nhờ dưới mái hiên bang Đại Trạch, nhưng Trúc Phụng Tiên không hề tới cửa lôi kéo làm quen. Chỉ đến sáng sớm ngày dự lễ, mới gọi Trần Bình An cùng nhau lên đường, đi tới Kim Quế quán trên đỉnh núi.
Trên đường lên núi, Trúc Phụng Tiên đi kề vai với Trần Bình An, trò chuyện về phong thổ của nước Thanh Loan.
Đến cửa Kim Quế quán, Hứa Bá Thụy tươi cười nghênh đón, sắp xếp cho hai nhóm người Trúc Phụng Tiên và Trần Bình An, ngồi ở gần hàng trước địa điểm đạo quán thu đồ đệ.
Quán chủ lão thần tiên Trương Quả, cuối cùng đã thu nhận chín đệ tử, đương nhiên Trúc Tử Dương và Lưu Thanh Thành đều nằm trong số đó. Bảy người còn lại, có hai người là chị gái và em trai xuất thân dân gian, năm người khác đều là con cháu hào môn thế tộc ở ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu.
Cộng thêm ba đệ tử ban đầu bao gồm Hứa Bá Thụy, quán chủ Trương Quả đã có mười hai đệ tử đích truyền.
Đạo đồng nhỏ cho Bùi Tiền mượn ô, hôm nay đã trở thành sư huynh của chín đồng môn vào sau, đứng sau lưng Hứa Bá Thụy, cao hứng đến mức không khép miệng được. Hắn vội vàng nhìn về phía Bùi Tiền, lại phát hiện cô bé chẳng hề nhìn mình, liền cảm thấy hơi mất mát.
Nghi thức tiên sư Đạo môn thu đồ đệ, gọi là lễ nghi rườm rà cũng không quá mức, lại tốn đến gần một canh giờ.
Dự lễ xong, những người cầm đầu thế lực các phương như Trần Bình An, Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, đều được Kim Quế quán tặng một chiếc ô giấy dầu cán cành quế, giá trị không rẻ.
Trúc Phụng Tiên còn muốn ở lại sườn núi mấy ngày. Dù sao Trúc Tử Dương vừa mới trở thành đệ tử của Trương Quả Kim Quế quán, lỡ may lạ nước lạ cái, lão cũng không yên tâm xuống núi rời đi như vậy.
Xem xong buổi lễ thu đồ đệ, còn được tặng một chiếc ô cành quế. Sau khi phân biệt cáo từ Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, nhóm người Trần Bình An rời khỏi núi Thanh Yêu, men theo đường nhỏ giữa rừng núi yên tĩnh sâu thẳm tiếp tục lên đường, đi tới phủ đại đô đốc.
Trâu đất màu vàng cũng gia nhập đội ngũ, Bùi Tiền ngồi trên lưng nó.
Lúc trước Bùi Tiền lần đầu tiên đề nghị muốn cưỡi trâu đất, liền bị Trần Bình An gõ đầu một cái. Thế nhưng trâu đất lại không từ chối, để cho Bùi Tiền cưỡi lên lưng nó.
So với bốn người trong tranh cuộn ở đất lành Ngẫu Hoa, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà càng biết nhiều chuyện trên núi hơn, cho nên rất ngạc nhiên với chuyện này.
Lại mười ngày trôi đi, nhóm người Trần Bình An đi qua một thôn trang ba mặt bị núi bao quanh. Lúc hoàng hôn khói bếp lượn lờ, ngói đen tường trắng, giống như bồng lai tiên cảnh.
Đám người Trần Bình An dọc theo đường nhỏ đi xuống triền núi, đến đầu thôn lại phát hiện không hiểu ngôn ngữ ở đây. Sau đó có một thầy giáo dạy học trong thôn chạy tới, dùng ngôn ngữ thông dụng Bảo Bình châu trúc trắc giao lưu với Trần Bình An.
Lúc này Trần Bình An mới biết, người trong thôn vừa khéo gần như đều là họ Trần, nhiều đời tập võ làm bảo tiêu. Nhưng dựa theo tổ huấn tộc quy, bất kể gia đình nghèo đến đâu, trẻ con đều phải học xong bốn năm ở trường mới được nghỉ học.
Tộc trưởng là một ông lão tuổi bảy mươi, mặc áo dài màu xám, chân đi giày vải, tinh thần quắc thước, bước đi như bay. Theo như thầy giáo trường học kia nói, trong phạm vi mấy trăm dặm này, lão tộc trưởng là người có võ nghệ tinh thâm, hơn nữa đức cao vọng trọng. Bởi vì năm xưa từng cản ngựa cứu trẻ con trong phường thị, cho nên được ca tụng là “Trần bài phường” (đền thờ họ Trần).
Ông lão vừa nghe Trần Bình An cũng họ Trần, lập tức cao hứng, nhiệt tình mời bọn họ đến nhà làm khách. Ông ta vốn đã ăn cơm tối xong, lại bảo trong nhà làm thêm một bàn thức ăn phong phú, còn mình thì xách một bình rượu cao lương tự ủ, kéo Trần Bình An uống rượu.
Mặc dù ông lão rất thích uống rượu, nhưng khi ngồi vào bàn lại không thích khuyên người khác uống rượu. Cứ như vậy, Trần Bình An lại uống đến hơi váng đầu. Cuối cùng hắn cũng không biết làm cách nào đi về phòng, hơn nửa đêm tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn cổ kính xa lạ.
Trần Bình An vén chăn lên, mang giày đẩy cửa bước ra, ngẩng đầu lên, trông thấy đấu củng (3) tinh xảo, bèn cẩn thận nhìn ngắm một phen. Lúc trước ở đất lành Ngẫu Hoa, hắn từng xin quốc sư Chủng Thu rất nhiều thư tịch công bộ liên quan đến xây cầu. Trong đó có một bộ “tiêu chuẩn xây dựng”, Trần Bình An lật xem nhiều nhất, không chỉ cầu mà còn giới thiệu về những kiến trúc khác như nhà hay lầu các.
Nhà trong thôn phần lớn nối tiếp với nhau, cho nên hành lang rất dài, anh em sau khi tách ra lại ở sát bên.
Trần Bình An đi ra hành lang, dọc theo đường đá xanh đi thẳng tới bên cạnh một ao nước, đứng ở đó một đêm.
Thực ra cũng không nghĩ nhiều chuyện gì, chỉ là ngẩn người mà thôi.
Ngày hôm sau lại bị lão tộc trưởng nhiệt tình khó từ chối giữ lại.
Bùi Tiền mặc dù không biết tiếng địa phương, nhưng vẫn chơi đùa với một đám bạn cùng lứa. Lúc Trần Bình An đi gọi cô bé về ăn cơm, đám nhỏ đang chơi trò diều hâu bắt gà con.
Bùi Tiền bảo Trần Bình An chơi cùng, Trần Bình An cười gập hai ngón tay lại, giơ tay lên ra vẻ muốn gõ đầu. Nhưng cuối cùng không chịu nổi sự nài nỉ của Bùi Tiền, Trần Bình An đành phải làm gà mẹ bảo vệ gà con, Bùi Tiền thì làm diều hâu bắt gà con. Nhưng Bùi Tiền nào bắt được “gà con” ở sau đuôi nhóm Trần Bình An, thế là cô đổi vị trí với “gà con” kia, tiếp tục chơi đùa.
Trong sân tiếng cười của Bùi Tiền là lớn nhất.
Khói bếp lượn lờ, kèm theo ánh tà dương.
Trương Sơn Phong đứng ở phía xa, mỉm cười vẫy tay, ra hiệu đang chờ hai thầy trò bọn họ trở về ăn cơm. Còn có các trưởng bối đứng ở trước cửa, lớn tiếng gọi tên trẻ con nhà mình. Trần Bình An dắt tay Bùi Tiền đi về phía Trương Sơn Phong. Đám nhỏ cũng tản đi về nhà.
Khi ba người đi trong ngõ, phía trước đột nhiên xuất hiện một lão đạo nhân mũi ban đỏ, vóc dáng thấp bé, mặc một bộ đạo bào màu đen, hai tay áo mỗi bên thêu một con rồng lửa đỏ tươi sống động như thật.
Trương Sơn Phong ngẩn ra tại chỗ. Trần Bình An nín thở ngưng thần, như lâm đại địch. Bùi Tiền chỉ nhìn mấy lần, vội vàng nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa.
Trương Sơn Phong bước nhanh tới trước, nghi hoặc hỏi:
- Sư phụ, sao ngài lại tới đây?
Ông lão trừng mắt nói:
- Nếu vi sư không tới bắt ngươi về núi tu đạo, có phải ngươi còn muốn ở bên ngoài lấy vợ sinh con, vươn cành tỏa lá?
Trương Sơn Phong quay đầu, bất đắc dĩ cười với Trần Bình An, ý tứ đại khái là sư phụ của ta tính tình như vậy, đừng quá để ý.
Lúc Trương Sơn Phong quay đầu, ông lão nhìn thấy vai của đồ đệ mình bị phi kiếm bản mệnh đâm thấu, lập tức giậm chân một cái, giận tím mặt nói:
- Ai dám tổn thương ngươi? Báo tên ra, vi sư... bây giờ sẽ đi quấn người cỏ của hắn!
Trương Sơn Phong đưa tay vuốt mặt một cái, gặp phải một sư phụ như vậy, đúng là không có mặt mũi nhìn Trần Bình An nữa.
Sắc mặt Trần Bình An nghiêm túc, ôm quyền chào vị lão đạo sĩ đến từ Bắc Câu Lô Châu này.
Lão chân nhân rồng lửa vốn là thiên sư khác họ của núi Long Hổ, gật đầu với Trần Bình An, dùng tiếng lòng dứt khoát nói với hắn: “Thằng nhóc, cầu trường sinh của ngươi bị người ta hủy rồi, đang xây dựng lại đúng không? Cũng hơi gập ghềnh. Có điều vật bản mệnh ngũ hành thủy mà ngươi luyện hóa hiện giờ, đúng là tiên khí đầy đủ. Ừm, không tệ, không tệ.”
Lão chân nhân lại nhìn Trương Sơn Phong, bảo hắn vươn tay ra, còn mình thì khép hai ngón tay lại, vẽ bùa trong lòng bàn tay Trương Sơn Phong. Sau khi bùa thành, ông ta vung tay áo lên, ánh sáng vàng lập lòe, trong nháy mắt lại tắt đi. Sau đó thanh Chân Vũ kiếm và đoản đao của Từ Viễn Hà vốn tạm thời để ở phủ đại đô đốc, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt.
Trương Sơn Phong không hề ngạc nhiên, đưa tay cầm lấy Chân Vũ kiếm và đoản đao, không quên quay đầu giải thích với Trần Bình An:
- Sư phụ ta tu vi không cao, chuyện khác không biết, nhưng rất sở trường những thủ đoạn bất chính này.
Lão chân nhân vuốt râu cười, vẻ mặt đắc ý. Bị đệ tử thân truyền vạch khuyết điểm như vậy, lại không cho rằng sỉ nhục, ngược lại cho rằng vinh quang.
Trần Bình An nhìn Trương Sơn Phong, lại nhìn lão đạo sĩ hai tay áo thêu rồng lửa. Hắn tự hỏi liệu có phải Trương Sơn Phong quá dửng dưng với người bên cạnh, hiểu sai về sư phụ mình hay không.
Lão chân nhân nhìn như tùy tiện dùng mũi chân “nguệch ngoạc” dưới đất một trận, trên phiến đá xanh không có đấu vết gì, sau đó lại bảo Trương Sơn Phong đứng vào trong. Trương Sơn Phong muốn nói lại thôi. Lão chân nhân nói với giọng điệu chắc nịch:
- Vi sư muốn dẫn ngươi đến núi Long Hổ một chuyến.
Trương Sơn Phong đi vào trong “bùa chú” giống như không tồn tại kia, ném đoản đao trong tay cho Trần Bình An, cười khổ nói:
- Giúp ta xin lỗi Từ đại ca một tiếng, quá vội vàng, đành phải không từ mà biệt.
Trần Bình An chụp lấy đoản đao của Từ Viễn Hà, nhớ tới một chuyện, liền từ trong vật một tấc lấy ra hộp gỗ màu xanh, ném cho Trương Sơn Phong, nói:
- Bên trong là một pháp ấn của lầu Thành Hoàng quận Yên Chi nước Thải Y, tặng cho ngươi, tốt nhất là phối hợp với ngũ lôi chính pháp để sử dụng.
Trương Sơn Phong thấy hộp gỗ cổ xưa có vẻ rất bình thường, bèn yên tâm cất vào trong người.
Lão chân nhân đột nhiên híp mắt, trong phút chốc lại khôi phục bình thường, cười nói với Trần Bình An:
- Ngươi hãy nói một yêu cầu. Ta đếm tới mười, quá hạn không chờ.
Trần Bình An không hề do dự nói:
- Vậy làm phiền lão chân nhân truyền thụ cho Trương Sơn Phong một chút đạo pháp cao thâm, khẩn cầu lão chân nhân... dụng tâm một chút.
Lão chân nhân thoải mái cười lớn, đưa tay chỉ vào Trần Bình An, tấm tắc nói:
- Thằng nhóc giỏi lắm, bóng gió mắng người.
Ông ta đưa tay nắm lấy Trương Sơn Phong, thân hình hai người nhoáng lên rồi biến mất. Trần Bình An phát hiện linh khí mỏng manh xung quanh con ngõ không hề dao động.
Trần Bình An lâm vào trầm tư. Bùi Tiền kéo kéo ống tay áo của hắn, hỏi:
- Làm sao đây?
Trần Bình An khôi phục tinh thần, cười nói:
- Đi ăn cơm.
- --------
Chú thích:
(2) Phiến Nhi Xuyên: một món mì nổi tiếng của Hàng Châu, được nấu với các loại nguyên liệu như rau cải, măng, thịt nạc thái miếng.
(3) Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.
Trương Sơn Phong cần cù tu hành trong phòng kế bên. Đạo sĩ trẻ tuổi này của Bắc Câu Lô Châu, tự đánh giá là tư chất bình thường. Năm xưa sư phụ chỉ thương hại hắn không chỗ để đi, mới miễn cưỡng thu làm đệ tử thân truyền. Hơn nữa đường tu hành sau này cũng chứng minh ánh mắt của sư phụ hắn không sai, Trương Sơn Phong quả thật tiến triển chậm chạp, hôm nay còn chưa bước vào năm cảnh giới trung.
Có điều Trương Sơn Phong tâm tính kiên trì, chưa từng nhụt chí, thỉnh thoảng tỏ ra mất mát, chỉ là phản ứng đối với bản lĩnh không tốt của mình mà thôi. Trong chuyện này thái độ của hắn rất giống với Trần Bình An, chẳng qua là đường dưới chân tự mình đi, chỉ cần không so sánh với người khác, sẽ không quan tâm thiên phú tốt xấu nữa, ngược lại có thể đi một cách kiên định trầm ổn.
Cái gọi là thiên phú tố chất của luyện khí sĩ rất có nghiên cứu, huyền cơ đều nằm ở hai chữ “bẩm sinh”. Thiên phú cao thấp sẽ quyết định động phủ mở ra lớn hay nhỏ, dung nạp linh khí nhiều hay ít.
Ngoại trừ chuyện này, thiên phú cao thấp cũng quyết định tốc độ hấp thu nhanh hay chậm. Trong sự nhanh chậm đó, còn có mức độ tinh luyện linh khí, sẽ quyết định xem là khe suối róc rách đáng thương, hay là sông lớn cuồn cuộn khiến người ta kinh ngạc. Sau khi nghiên cứu thiên phú, mới có thể tiến một bước nghiên cứu tình trạng cao thấp của buồng đan, cùng với phẩm chất của nguyên anh trong tương lai.
Hôm nay Trần Bình An thường luyện tập tư thế trời đất kỳ quặc kia, dùng ngón tay chống xuống đất. Có điều luyện quyền lâu như vậy, hắn cũng nghĩ ra được một chút đường lối. Chẳng hạn như đồng thời luyện ba thế Hám Sơn quyền, dùng thế trời đất để đi thế sáu bước, một tay bấm pháp quyết, trong lúc đó lại vận chuyển kiếm khí Thập Bát Đình.
Đúng là một chân trời mới.
Có điều cũng phải trả giá một chút. Trên đường hẹp giữa rừng núi xung quanh không người, Trần Bình An thường “đi” sai đường, lệch khỏi con đường mà mọi người đang đi, ngã vào khe suối hoặc rơi xuống sườn núi.
Sau đó vẫn là Bùi Tiền nghĩ ra một biện pháp ngu ngốc, buộc dây thừng vào đầu gậy leo núi, lại cột vào hồ lô nuôi kiếm bên hông Trần Bình An. Bùi Tiền đi ở phía trước, kéo theo Trần Bình An, đương nhiên hôm nay cô cũng phải luyện tập sáu bước đi thế.
Một lớn một nhỏ, một trước một sau đi tới như vậy, quả là người cùng đường đúng như ý nghĩa.
Lúc này Trần Bình An đang trồng chuối “đi” vòng quanh bàn.
Bùi Tiền chép sách xong, đã nhìn thế trời đất của Trần Bình An vô số lần, nhưng vẫn cảm thấy rất thú vị.
Trần Bình An lộn người lại, hít thở sâu một hơi.
Tại thành Lão Long, sau khi bị Thuyền Nuốt Kiếm của Đỗ Mậu “một kiếm” xuyên bụng, đến bến thuyền Phong Vĩ, rồi đến Kim Quế quán nước Thanh Loan này, thực lực của hắn từ cảnh giới thứ ba đã dần dần khôi phục đến cảnh giới thứ tư. Muốn đạt đến cảnh giới thứ năm đỉnh cao, còn phải dựa vào đi thế và rượu thuốc tiểu luyện, cùng với nghỉ ngơi không ít thời gian.
Chuyện này có lợi cũng có hại, cái hại đương nhiên là trì hoãn tốc độ bước vào cảnh giới thứ sáu, chỗ tốt lại là cơ sở cảnh giới thứ năm sẽ vững chắc hơn.
Chu Liễm đã từng nói đùa, cho dù không dựa vào ngoại vật, hai bên dùng thực lực của võ phu thuần túy, Trần Bình An vẫn có thể dùng cảnh giới thứ năm đỉnh cao của hắn, chiến thắng cảnh giới thứ sáu đỉnh cao của bốn người bọn họ.
Đối với chuyện này, Tùy Hữu Biên xì mũi coi thường, Lư Bạch Tượng lại khá đồng ý. Còn như Ngụy Tiện vốn khó đoán, khi đó đang bận tán gẫu với Bùi Tiền.
Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, kiểm tra nội dung Bùi Tiền sao chép, sau khi xác nhận không miễn cưỡng qua loa, mới ra hiệu cho cô bé có thể đi chơi.
Bùi Tiền lặng lẽ nói:
- Sư phụ, con cảm thấy những cây quế phía sau đạo quán, kém xa lá quế cành quế mà dì Quế tặng cho chúng ta, sao những đạo sĩ kia lại xem như bảo vật? Còn nói khoác mà không biết ngượng, bảo là “trồng trên cung trăng” gì đó. Nếu đây là con cháu đời sau của cây quế trên cung trăng, vậy dì Quế của chúng ta còn không phải là thần tiên trên đó à?
Trong lòng Trần Bình An khẽ động, nói:
- Không được nói xấu sau lưng người khác.
Bùi Tiền “à” một tiếng.
Trần Bình An đột nhiên cười lên, nói:
- Có điều ta cảm thấy ngươi nói không sai.
Bùi Tiền tươi cười rạng rỡ:
- Sư phụ cũng cảm thấy như vậy đúng không? Con đã nói rồi mà.
Trần Bình An ngưng cười, dặn dò:
- Cho nên lần sau gặp lại dì Quế, phải lễ độ hơn.
Bùi Tiền gật đầu nói:
- Đương nhiên rồi, dì Quế là người mà con thật lòng yêu mến.
Trần Bình An trêu chọc:
- Còn đạo đồng nhỏ của Kim Quế quán cho ngươi mượn ô che mưa thì sao?
Bùi Tiền đập bàn một cái, nổi nóng nói:
- Tên này rất phiền phức, nếu con và hắn gặp nhau trong ngõ hẹp, không có người ngoài ở đó, con muốn đánh cho cha mẹ sư phụ hắn cũng không nhận ra.
Trần Bình An cười nói:
- Bây giờ biết phiền phức rồi à? Ngươi ngẫm lại xem, mình đã quấy rầy Ngụy Tiện và Lư Bạch Tượng thế nào?
Bùi Tiền mở to mắt, suy nghĩ cả buổi, đành phải lấy lá bùa bảo tháp trấn yêu mà mình thích nhất ra, dán vào trên trán, thở dài nói:
- Nói như thế, lão Ngụy và Tiểu Bạch đúng là đáng thương.
Trần Bình An gõ đầu một cái, giả vờ cả giận nói:
- Ngươi mới biết à? Trong sách có nói “quân tử phải kiểm điểm bản thân nhiều lần”, ngươi hãy tự xét lại mình một chút.
Bùi Tiền ôm đầu, đột nhiên đứng lên, chạy đến cửa phòng, quay đầu cười nói:
- Sư phụ, con đi nói với lão Ngụy và Tiểu Bạch một tiếng. Lần sau ra chợ, con sẽ móc tiền túi, mua cho bọn họ mỗi người một xâu mứt quả gì đó.
Sau khi Bùi Tiền rời đi, Trần Bình An bắt đầu suy nghĩ chuyện luyện hóa vật bản mệnh thứ hai.
Còn về thân xác dương thần của Đỗ Mậu tương đương với kim thân cảnh giới Tiên Nhân, hắn quyết định chờ đến thư viện Sơn Nhai Đại Tùy, hỏi ý kiến của Thôi Đông Sơn vốn tinh thông chuyện này, sau đó mới đưa ra quyết định.
Từ đáy lòng Trần Bình An không tin tưởng tính cách của vị “thiếu niên quốc sư” này, nhưng dù sao vẫn tin tưởng học vấn kiến thức của đồ đệ đầu tiên của Văn Thánh năm xưa.
Lần này gặp lại Trương Sơn Phong, Trần Bình An đã thỉnh giáo không ít chuyện tu hành, nhất là những chuyện liên quan đến luyện hóa vật bản mệnh. Trương Sơn Phong đương nhiên là nói hết những gì mình biết.
Mặc dù tu vi của Trương Sơn Phong không cao, nhưng ánh mắt và kiến giải đều không tầm thường, có lẽ là do xuất thân từ tiên gia chính thống, dù sao sư phụ của hắn cũng là thiên sư khác họ của núi Long Hổ. Tuy nói cảnh giới của thiên sư khác họ cũng có cao có thấp, nhưng đạo nhân có thể được ghi vào gia phả cao quý của phủ Thiên Sư sẽ không đơn giản.
Trần Bình An lấy một bình rượu hoa quế ra, tìm một cái ly, uống rượu một mình.
Theo như Trương Sơn Phong nói, ngay cả khi tài lực và cơ duyên không phải là vấn đề lớn, vật bản mệnh cũng không hẳn càng nhiều càng tốt, mà là phải tập hợp đủ ngũ hành.
Một vật bản mệnh tương tự bình sứ xanh của trâu đất màu vàng, dùng để trợ giúp hấp thu linh khí trời đất, đây là thứ nhất định phải có. Một món dùng để chém giết công phạt, chẳng hạn như phi kiếm bản mệnh của kiếm tu, chính là cực hạn của vật bản mệnh công phạt trên thế gian. Một món dùng để phòng ngự, công hiệu tương tự pháp bào Kim Lễ, giáp viên Binh gia.
Một vật một tấc hay một thước, giống như kho vũ khí một tấc hay mộ kiếm một thước. Có điều đồ vật quý hiếm như vậy, gần như không thể gặp, càng không thể cầu. Cuối cùng là một món đồ trấn áp nuôi dưỡng trong khiếu huyệt bản mệnh, vật này bẩm sinh có sức chấn nhiếp với yêu ma quỷ quái, hơn nữa có thể không ngừng tăng trưởng dương khí bản thân. Khi đi qua những nơi âm tà khó đoán, có thể khiến cho chủ nhân nước lửa bất xâm, dơ bẩn tránh xa.
Trương Sơn Phong còn nói luyện hóa vật bản mệnh là con dao hai lưỡi. Đã là vật bản mệnh, một khi bị tổn hại sẽ khiến cho cơ sở đại đạo lung lay, hậu quả không thể tưởng tượng. Hơn nữa mỗi vật bản mệnh phải chiếm cứ một khiếu huyệt phủ đệ, một khi thật giả lẫn lộn, hoặc là không suy nghĩ tuyến đường linh khí vận hành, sẽ dễ khiến cho thuộc tính xung khắc, làm trở ngại luyện khí sĩ tu hành, thậm chí có thể tẩu hỏa nhập ma.
Cuối cùng Trương Sơn Phong nói, gom đủ vật bản mệnh ngũ hành là điều mà tất cả luyện khí sĩ ngoài kiếm tu đều ước mong, nhưng không cần cố hết sức theo đuổi chuyện này, bởi vì quá hao tốn tiền thần tiên, quá coi trọng cơ duyên. Thông thường mà nói, có ba vật bản mệnh phẩm chất khá tốt là đủ rồi, một công một thủ, cùng với một món trợ giúp luyện khí sĩ hấp thu tích lũy linh khí. Phần lớn luyện khí sĩ năm cảnh giới trung trong thiên hạ đều như vậy, trừ khi là địa tiên mới theo đuổi nhiều hơn.
Nghe Trương Sơn Phong giảng giải, Trần Bình An đã thu được rất nhiều lợi ích.
Bên trong hộp gỗ màu xanh kia, nghe nói có “pháp ấn bảo hộ thành hoàng quận Yên Chi nước Thải Y”, do đại thiên sư đời nào đó của núi Long Hổ tự mình khắc thành. Từ khi lấy được pháp ấn tới nay, Trần Bình An chưa từng mở hộp gỗ màu xanh ra lần nào. Hắn quyết định dùng nó làm lễ vật chia tay, tặng cho vị thiên sư khác họ tương lai của núi Long Hổ là Trương Sơn Phong.
Thành hoàng gia Thẩm Ôn của quận Yên Chi rất coi trọng pháp ấn này, Trần Bình An suy đoán rất có thể là một món nửa tiên binh. Thẩm Ôn từng chính miệng nói, dùng ấn này phối hợp với ngũ lôi chính pháp đích truyền của núi Long Hổ, sẽ có uy lực kinh người.
Ban đầu pháp ấn bị phong kín trong lầu thành hoàng, vẫn ngăn cản được tà khí của bãi tha ma rộng lớn bên ngoài quận thành Yên Chi, có thể thấy cấp bậc của nó cao thế nào, chắc chắn không chỉ là pháp bảo.
Trần Bình An hơi do dự, không biết có nên luyện hóa văn mật màu vàng của thành hoàng gia quận Yên Chi nước Thải Y hay không.
Sở dĩ do dự, là vì lúc trước trong trận chiến ở nước Thải Y, hắn đã lấy được một cái chén trắng vẽ hình Ngũ Nhạc nước Cổ Du, có thể tạo ra đất xã tắc năm màu. Hắn đã nghe theo đề nghị của Từ Viễn Hà, không bán nó cho phường Thanh Phù. Trần Bình An đang suy nghĩ, có nên dùng chén trắng lợi nhuận hàng năm là “năm đồng tiền hoa tuyết”, làm vật bản mệnh ngũ hành thổ của mình hay không.
Hôm nay kỵ binh Đại Ly xuôi nam đã là thế như chẻ tre. Phía bắc có thần Bắc Nhạc Ngụy Bách ở núi Phi Vân quê nhà mình, phía nam hình như là Nam Nhạc mới của Đại Ly do Phạm Tuấn Mậu trấn giữ. Một khi chuyện này trở thành sự thật, lãnh thổ của vương triều Đại Ly sẽ trải khắp một châu, đất năm màu sẽ trở nên cực kỳ quý giá, đến lúc đó triều đình Đại Ly nhất định sẽ kiểm soát rất chặt chẽ.
Nếu bây giờ Trần Bình An có thể xác định vị trí ba ngọn núi Nhạc còn lại ngoại trừ nam bắc, tập hợp đủ đất năm màu, lại tìm một món đồ thích hợp để chứa, lợi nhuận chắc chắn sẽ rất lớn.
Nhưng chỗ khó xử là không biết ba ngọn núi Nhạc kia nằm ở phương nào. Dùng thứ này làm vật bản mệnh, sẽ thu được lợi nhuận to lớn trong ngắn hạn, nhưng họa ngầm là phải phụ thuộc vào quốc thế Đại Ly lên hay xuống. Có điều đối với luyện khí sĩ dưới năm cảnh giới cao, chắc chắn là lợi nhiều hơn hại, có thể khiến bọn họ nhanh chóng trở thành địa tiên.
Lúc này Trần Bình An uống rượu, lại nhớ tới nhóm trinh sát Đại Ly trong gió tuyết, còn nghĩ đến hàng xóm Tống Tập Tân ở kế bên nhà tổ ngõ Nê Bình.
Sau khi uống cạn một chút rượu hoa quế cuối cùng trong ly, Trần Bình An quyết định từ bỏ chuyện luyện hóa đất xã tắc năm màu.
Đã có quyết định, hắn cũng không do dự nữa, chuẩn bị luyện hóa văn mật màu vàng. Có điều muốn chiếm được thiên thời địa lợi nhân hòa giống như ở thành Lão Long, khó như lên trời.
Trần Bình An đứng lên, đi tới bên cạnh cửa sổ, nằm trên thành cửa, ngơ ngơ ngẩn ngẩn.
Chuyện này dù sao cũng không giống như luyện quyền, chỉ cần kiên trì bền bỉ, một ngày nào đó sẽ có thể đánh xong một triệu quyền.
Từ Viễn Hà gõ cửa đi vào. Trần Bình An ngồi trở về bên cạnh bàn, lại lấy một ly rượu, hai người cùng uống.
Từ Viễn Hà cũng không nói chuyện quan trọng gì, chỉ hi vọng một ngày nào đó sẽ có tiệm sách chịu in quyển du ký núi sông của ông ta, kiếm được một chút vốn liếng.
Trần Bình An bèn lấy ra mấy thẻ trúc xanh có khắc chữ chi chít, ghi lại những gì nghe và thấy trên đường, đưa cho Từ Viễn Hà. Trong đó có những chiếc thuyền tiên gia to lớn như đảo Quế Hoa và rùa Sơn Hải của thành Lão Long, cùng với biển mây phía trên thành trì, tượng thần vũ sư của tông môn trên biển, giao long già làm mưa cố gắng rơi xuống biển gần khe Giao Long, những bức tranh kiếm tiên trong nhà Linh Chi núi Đảo Huyền, đường phi ngựa ở Kiếm Khí trường thành, đường Hảm Thiên ở Phù Kê tông Đồng Diệp châu, mặt trời mọc ở đỉnh Chiếu Bình bên ngoài thành Thận Cảnh....
Hai người uống rượu, thảo luận chi tiết về những kiến thức trên thẻ trúc, thời gian trôi qua trong bữa rượu.
Trong phòng kế bên, đạo sĩ trẻ tuổi Trương Sơn Phong vừa kết thúc tĩnh tọa thổ nạp, bắt đầu chậm rãi đánh quyền. Bộ quyền pháp này khác với phần lớn quyền pháp trong thiên hạ, chỉ cầu chậm không cầu nhanh, không thích hợp giết địch, đại khái chỉ có thể dùng để luyện quyền dưỡng sinh. Có điều Trương Sơn Phong cảm thấy rất phù hợp với bằng hữu của mình.
Bộ quyền pháp này là do hắn tự nghĩ ra, hôm nay chỉ là hình thức ban đầu, quyền lý đến từ những lời say của sư phụ và cảm ngộ của bản thân hắn. Cũng không biết Trần Bình An có chê bai hay không, có chịu học hay không.
- --------
Trong hoàng hôn ở kinh thành nước Thanh Loan, có hai vị nho sĩ áo xanh đường xa tìm đến, ngồi bên cạnh một chiếc bàn nhỏ có khá nhiều cặn dầu, đặt ở một gian hàng ven đường. Trên bàn có một cái ống trúc chứa đầy đũa trúc.
Trong đó có một vị nho sĩ gầy gò khoảng ba mươi tuổi, vốn quen thuộc với tính tình của đối phương, vì vậy nghiêm túc nói:
- Chu Cự Nhiên, trước tiên phải nói rõ, ta không ăn cay được.
Nho sĩ trẻ tuổi tên là Chu Cự Nhiên cười nói:
- Hầu Tử (con khỉ), bởi vì không ăn cay, cho nên ngươi đã bỏ lỡ rất nhiều thức ăn ngon của nhân gian.
Nho sĩ gầy gò bị gọi đùa là “Hầu Tử”, bất đắc dĩ lắc đầu.
Đoạn đường này thật sự khiến hắn kinh hồn bạt vía. Chẳng có cách nào, tên Chu Cự Nhiên này đúng là kẻ chuyên gây họa, đúng sai thị phi trong lòng tên này luôn mơ hồ hơn những hiền nhân khác của thư viện. Có điều may mà mình vẫn có thể chấp nhận được.
Lần này hoàng đế họ Đường nước Thanh Loan khăng khăng làm theo ý mình, muốn cử hành Phật Đạo tranh luận, bên thắng sẽ trở thành quốc giáo, địa vị còn cao hơn cả Nho gia.
Hiện giờ sự chú ý của thư viện Quan Hồ bọn họ đều tập trung vào thiên quân Đạo gia Tạ Thực của Bắc Câu Lô Châu, không rảnh chiếu cố chuyện ở nơi này. Nếu không Hầu Chính hắn và Chu Cự Nhiên, một quân tử và một hiền nhân, sẽ không phải “du lịch khắp nơi” ở nước Thanh Loan, mà là chạy thẳng tới hoàng cung, khiển trách vị hoàng đế họ Đường kia một phen rồi.
Chu Cự Nhiên gọi hai phần mì Phiến Nhi Xuyên (2) đặc sản địa phương, một phần thêm cay, một phần không cay, bắt đầu ăn với “Hầu Tử” đến từ thành Lão Long.
Hiền nhân trẻ tuổi ở bên ngoài thích tự xưng là Chu Cự, cuốn một đũa Phiến Nhi Xuyên bỏ vào trong miệng, nói hàm hồ không rõ:
- Nghe tiên sinh nói, lần này Phật Đạo tranh luận ở nước Thanh Loan có điểm mới mẻ. Đối ngoại thì nói là Phật môn và Đạo gia mỗi bên cử ra mười vị cao tăng và chân nhân, tranh cãi ở hoàng cung, xem bản lĩnh cãi nhau của ai lớn hơn. Nhưng chân chính quyết định thắng bại, lại là âm thầm sắp xếp một đạo sĩ và một nhà sư tranh luận với nhau, xem thử Phật pháp Đạo pháp của ai cao hơn.
- Bọn họ còn mời một lão nhân của họ Khương Vân Lâm làm quan tổng tài, lại nhờ hai vị địa tiên dùng thần thông quan sát toàn bộ quá trình. Đã phải phân ra thắng bại giữa kinh phật và đạo tạng (kho kinh sách của Đạo giáo), còn phải so sánh đối nhân xử thế và công lao khuyến thiện. Học vấn, tu thân, giáo hóa, vừa lúc so đấu ba trận.
Hầu Chính nhíu mày, đây là lần đầu tiên hắn nghe Chu Cự Nhiên nói đến nội tình này. Sau khi suy nghĩ một lúc, chân mày của hắn giãn ra, nói:
- Chẳng trách sơn chủ lại không tức giận. Đá ở núi khác có thể mài ngọc, hành động này của nước Thanh Loan, thực ra cũng không hoàn toàn là chuyện xấu.
Chu Cự Nhiên hiểu ngầm khẽ cười, cầm đũa chỉ chỉ vào nho sĩ đối diện, khen ngợi:
- Điểm này của Hầu Chính ngươi đúng là hợp với tính cách của ta, có thể nghĩ thoáng, hơn nữa còn nghĩ theo hướng tốt.
Hầu Chính lắc đầu không nói gì.
Chu Cự Nhiên hỏi:
- Thành Lão Long xảy ra chuyện lớn như vậy, ngươi không về thăm nhà một chút sao?
Hầu Chính vẫn lắc đầu:
- Đi cũng vô dụng. Gia phong tổ tiên họ Hầu truyền xuống vốn còn lại không nhiều, giống như ngọn đèn sắp tắt mà thôi. Ta đi chuyến này chỉ khiến cho ngọn lửa ở tim đèn sáng hơn một chút, sau đó sẽ tắt nhanh hơn, còn không bằng giữ nguyên dở sống dở chết như vậy. Chỉ hi vọng xuất hiện một vãn bối có thể gánh vác được, đến lúc đó ta sẽ giúp đỡ một tay.
Chu Cự Nhiên gật đầu nói:
- Vẫn là ngươi suy nghĩ chu đáo.
Hầu Chính cười khổ nói:
- Dù sao cũng sinh ra và lớn lên ở đó, ta có thể không nghĩ nhiều một chút sao?
Chu Cự Nhiên dừng đũa, hỏi:
- Ngươi ăn no chưa?
Hầu Chính nhìn cái tô trắng trống rỗng trước mặt đối phương, ngay cả nước cũng không còn lại chút gì, bèn không để ý tới Chu Cự Nhiên nữa, vùi đầu ăn mì.
Chu Cự Nhiên than vãn một tiếng, quay đầu gọi:
- Ông chủ, thêm một tô nữa... nhớ bỏ ít cay một chút, tiệm này của ông đúng là cay chết người không đền mạng.
Trên đường lớn có phu nhân đội khăn và cô gái tuổi xuân dạo chơi ngoại thành trở về. Chu Cự Nhiên thở dài nói:
- Mỹ nhân du xuân trở về, có một chút mùi mồ hôi, cộng thêm mùi hương thoang thoảng từ rừng núi ao hồ, thật là thơm.
Hầu Chính ngoảnh mặt làm ngơ.
Chu Cự Nhiên lại nói:
- Hay là ta cũng tham gia ván cờ này, dứt khoát khiến Phật Đạo tranh luận của nước Thanh Loan, biến thành một trận tam giáo tranh đấu nho nhỏ?
Lần này Hầu Chính trả lời rất nhanh, cũng không ngẩng đầu lên, hờ hững nói:
- Không được.
Chu Cự Nhiên đập tay xuống bàn, gọi:
- Ông chủ, cho thật cay vào!
- --------
Cách gian hàng hiền nhân và quân tử thư viện ngồi ăn Phiến Nhi Xuyên không xa, có một tòa Bạch Vân quán thanh danh không lớn. So với những đạo quán cổ xưa ở nước Thanh Loan, hở một chút là mấy trăm năm đến ngàn năm lịch sử, Bạch Vân quán này từ khi xây dựng đến nay chỉ hơn trăm năm. Mà những khu vực có phong thủy tốt ở kinh thành, đã sớm bị những đạo quán chùa chiền “tiền bối” kia đến trước lấy trước, phân chia hầu như không còn.
Quán chủ là một đạo sĩ trung niên, danh tiếng không nổi bật ở nước Thanh Loan. Nếu chỉ xem như một người tu hành thì càng không đáng nhắc tới, bởi vì ông ta còn không phải là luyện khí sĩ năm cảnh giới trung.
Bạch Vân quán chỉ lớn như miếng đậu hủ, buộc phải nằm gần một phường thị ồn ào. Trong quán vẫn có mấy cây cổ thụ, nhưng một chút của cải miễn cưỡng cầm ra được như vậy, lại gây cho Bạch Vân quán rất nhiều phiền phức.
Trẻ con ở phường thị gần đó thích thả diều, hay bị vướng vào cây to trong quán. Cho nên thường có phu nhân hoặc đàn ông dẫn con cái nhà mình khóc sướt mướt, đứng bên ngoài Bạch Vân quán mắng chửi. Có người còn xông vào đạo quán, trách mắng những tiểu đạo sĩ rụt rè kia, bảo bọn họ bắc thang trèo lên cây lấy lại con diều đứt dây.
Mỗi lần xảy ra chuyện này, quán chủ trung niên hình dáng tiều tụy kia đều sẽ rời khỏi thư phòng, nhưng chỉ dám mặt ủ mày chau đứng ở phía xa, mặc cho sư đệ hoặc đệ tử của mình đứng ra ngăn cản.
Có một lần đạo đồng nhỏ của Bạch Vân quán lén chạy ra ngoài, chơi thả diều với trẻ con hàng xóm quen biết, không cẩn thận cũng bị vướng vào cây trong quán. Hắn đấu tranh trong lòng một phen, thật sự tiếc con diều kia, đành phải kiên trì nói với đạo quán.
Kết quả lại bị quán chủ tóm lấy trút giận, đánh cho hắn thiếu chút nữa cái mông nở hoa. Có điều hôm đó đạo đồng nhỏ lại cười như nở hoa, bởi vì trong chăn của hắn không biết vì sao lại có thêm một con búp bê bằng sứ thèm thuồng rất lâu. Chuyện này khiến hắn có thể khoe khoang với những đạo đồng khác một thời gian rất dài.
Lúc này đã là chiều hôm thâm trầm, đạo sĩ trung niên trong thư phòng nhỏ ngẩng đầu lên. Bởi vì nhìn chăm chú vào những văn tự trong thời gian dài, khiến cho mắt của ông ta hơi nhức nhối.
Bốn vách của thư phòng có hai mặt là giá sách, ngoại trừ “đạo tạng” phong phú, còn xen lẫn không ít kinh Phật và kinh điển Nho gia.
Đạo sĩ trung niên đã xem kỹ những điển tịch này, chỉ riêng tâm đắc đọc sách trong những năm qua, đã viết đầy bản thảo hơn chín mươi vạn chữ.
Người khác tu hành là vì khinh thường vương hầu, ngạo mạn công khanh, vì chứng đạo trường sinh bất hủ, vì thoát khỏi lồng giam lớn của trời đất. Còn quán chủ của đạo quán nhỏ này, lại là vì có thể sống lâu thêm mấy năm, xem thêm một ít sách.
Thư tịch thánh hiền của tam giáo các nhà, đều muốn xem hết.
- --------
Mặc dù nhóm người Trần Bình An xem như đang ở nhờ dưới mái hiên bang Đại Trạch, nhưng Trúc Phụng Tiên không hề tới cửa lôi kéo làm quen. Chỉ đến sáng sớm ngày dự lễ, mới gọi Trần Bình An cùng nhau lên đường, đi tới Kim Quế quán trên đỉnh núi.
Trên đường lên núi, Trúc Phụng Tiên đi kề vai với Trần Bình An, trò chuyện về phong thổ của nước Thanh Loan.
Đến cửa Kim Quế quán, Hứa Bá Thụy tươi cười nghênh đón, sắp xếp cho hai nhóm người Trúc Phụng Tiên và Trần Bình An, ngồi ở gần hàng trước địa điểm đạo quán thu đồ đệ.
Quán chủ lão thần tiên Trương Quả, cuối cùng đã thu nhận chín đệ tử, đương nhiên Trúc Tử Dương và Lưu Thanh Thành đều nằm trong số đó. Bảy người còn lại, có hai người là chị gái và em trai xuất thân dân gian, năm người khác đều là con cháu hào môn thế tộc ở ba nước Thanh Loan, Khánh Sơn và Vân Tiêu.
Cộng thêm ba đệ tử ban đầu bao gồm Hứa Bá Thụy, quán chủ Trương Quả đã có mười hai đệ tử đích truyền.
Đạo đồng nhỏ cho Bùi Tiền mượn ô, hôm nay đã trở thành sư huynh của chín đồng môn vào sau, đứng sau lưng Hứa Bá Thụy, cao hứng đến mức không khép miệng được. Hắn vội vàng nhìn về phía Bùi Tiền, lại phát hiện cô bé chẳng hề nhìn mình, liền cảm thấy hơi mất mát.
Nghi thức tiên sư Đạo môn thu đồ đệ, gọi là lễ nghi rườm rà cũng không quá mức, lại tốn đến gần một canh giờ.
Dự lễ xong, những người cầm đầu thế lực các phương như Trần Bình An, Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, đều được Kim Quế quán tặng một chiếc ô giấy dầu cán cành quế, giá trị không rẻ.
Trúc Phụng Tiên còn muốn ở lại sườn núi mấy ngày. Dù sao Trúc Tử Dương vừa mới trở thành đệ tử của Trương Quả Kim Quế quán, lỡ may lạ nước lạ cái, lão cũng không yên tâm xuống núi rời đi như vậy.
Xem xong buổi lễ thu đồ đệ, còn được tặng một chiếc ô cành quế. Sau khi phân biệt cáo từ Trúc Phụng Tiên và bà lão nhà Yên Chi, nhóm người Trần Bình An rời khỏi núi Thanh Yêu, men theo đường nhỏ giữa rừng núi yên tĩnh sâu thẳm tiếp tục lên đường, đi tới phủ đại đô đốc.
Trâu đất màu vàng cũng gia nhập đội ngũ, Bùi Tiền ngồi trên lưng nó.
Lúc trước Bùi Tiền lần đầu tiên đề nghị muốn cưỡi trâu đất, liền bị Trần Bình An gõ đầu một cái. Thế nhưng trâu đất lại không từ chối, để cho Bùi Tiền cưỡi lên lưng nó.
So với bốn người trong tranh cuộn ở đất lành Ngẫu Hoa, Trương Sơn Phong và Từ Viễn Hà càng biết nhiều chuyện trên núi hơn, cho nên rất ngạc nhiên với chuyện này.
Lại mười ngày trôi đi, nhóm người Trần Bình An đi qua một thôn trang ba mặt bị núi bao quanh. Lúc hoàng hôn khói bếp lượn lờ, ngói đen tường trắng, giống như bồng lai tiên cảnh.
Đám người Trần Bình An dọc theo đường nhỏ đi xuống triền núi, đến đầu thôn lại phát hiện không hiểu ngôn ngữ ở đây. Sau đó có một thầy giáo dạy học trong thôn chạy tới, dùng ngôn ngữ thông dụng Bảo Bình châu trúc trắc giao lưu với Trần Bình An.
Lúc này Trần Bình An mới biết, người trong thôn vừa khéo gần như đều là họ Trần, nhiều đời tập võ làm bảo tiêu. Nhưng dựa theo tổ huấn tộc quy, bất kể gia đình nghèo đến đâu, trẻ con đều phải học xong bốn năm ở trường mới được nghỉ học.
Tộc trưởng là một ông lão tuổi bảy mươi, mặc áo dài màu xám, chân đi giày vải, tinh thần quắc thước, bước đi như bay. Theo như thầy giáo trường học kia nói, trong phạm vi mấy trăm dặm này, lão tộc trưởng là người có võ nghệ tinh thâm, hơn nữa đức cao vọng trọng. Bởi vì năm xưa từng cản ngựa cứu trẻ con trong phường thị, cho nên được ca tụng là “Trần bài phường” (đền thờ họ Trần).
Ông lão vừa nghe Trần Bình An cũng họ Trần, lập tức cao hứng, nhiệt tình mời bọn họ đến nhà làm khách. Ông ta vốn đã ăn cơm tối xong, lại bảo trong nhà làm thêm một bàn thức ăn phong phú, còn mình thì xách một bình rượu cao lương tự ủ, kéo Trần Bình An uống rượu.
Mặc dù ông lão rất thích uống rượu, nhưng khi ngồi vào bàn lại không thích khuyên người khác uống rượu. Cứ như vậy, Trần Bình An lại uống đến hơi váng đầu. Cuối cùng hắn cũng không biết làm cách nào đi về phòng, hơn nửa đêm tỉnh lại, phát hiện mình đang nằm trên một chiếc giường lớn cổ kính xa lạ.
Trần Bình An vén chăn lên, mang giày đẩy cửa bước ra, ngẩng đầu lên, trông thấy đấu củng (3) tinh xảo, bèn cẩn thận nhìn ngắm một phen. Lúc trước ở đất lành Ngẫu Hoa, hắn từng xin quốc sư Chủng Thu rất nhiều thư tịch công bộ liên quan đến xây cầu. Trong đó có một bộ “tiêu chuẩn xây dựng”, Trần Bình An lật xem nhiều nhất, không chỉ cầu mà còn giới thiệu về những kiến trúc khác như nhà hay lầu các.
Nhà trong thôn phần lớn nối tiếp với nhau, cho nên hành lang rất dài, anh em sau khi tách ra lại ở sát bên.
Trần Bình An đi ra hành lang, dọc theo đường đá xanh đi thẳng tới bên cạnh một ao nước, đứng ở đó một đêm.
Thực ra cũng không nghĩ nhiều chuyện gì, chỉ là ngẩn người mà thôi.
Ngày hôm sau lại bị lão tộc trưởng nhiệt tình khó từ chối giữ lại.
Bùi Tiền mặc dù không biết tiếng địa phương, nhưng vẫn chơi đùa với một đám bạn cùng lứa. Lúc Trần Bình An đi gọi cô bé về ăn cơm, đám nhỏ đang chơi trò diều hâu bắt gà con.
Bùi Tiền bảo Trần Bình An chơi cùng, Trần Bình An cười gập hai ngón tay lại, giơ tay lên ra vẻ muốn gõ đầu. Nhưng cuối cùng không chịu nổi sự nài nỉ của Bùi Tiền, Trần Bình An đành phải làm gà mẹ bảo vệ gà con, Bùi Tiền thì làm diều hâu bắt gà con. Nhưng Bùi Tiền nào bắt được “gà con” ở sau đuôi nhóm Trần Bình An, thế là cô đổi vị trí với “gà con” kia, tiếp tục chơi đùa.
Trong sân tiếng cười của Bùi Tiền là lớn nhất.
Khói bếp lượn lờ, kèm theo ánh tà dương.
Trương Sơn Phong đứng ở phía xa, mỉm cười vẫy tay, ra hiệu đang chờ hai thầy trò bọn họ trở về ăn cơm. Còn có các trưởng bối đứng ở trước cửa, lớn tiếng gọi tên trẻ con nhà mình. Trần Bình An dắt tay Bùi Tiền đi về phía Trương Sơn Phong. Đám nhỏ cũng tản đi về nhà.
Khi ba người đi trong ngõ, phía trước đột nhiên xuất hiện một lão đạo nhân mũi ban đỏ, vóc dáng thấp bé, mặc một bộ đạo bào màu đen, hai tay áo mỗi bên thêu một con rồng lửa đỏ tươi sống động như thật.
Trương Sơn Phong ngẩn ra tại chỗ. Trần Bình An nín thở ngưng thần, như lâm đại địch. Bùi Tiền chỉ nhìn mấy lần, vội vàng nghiêng đầu đi không dám nhìn nữa.
Trương Sơn Phong bước nhanh tới trước, nghi hoặc hỏi:
- Sư phụ, sao ngài lại tới đây?
Ông lão trừng mắt nói:
- Nếu vi sư không tới bắt ngươi về núi tu đạo, có phải ngươi còn muốn ở bên ngoài lấy vợ sinh con, vươn cành tỏa lá?
Trương Sơn Phong quay đầu, bất đắc dĩ cười với Trần Bình An, ý tứ đại khái là sư phụ của ta tính tình như vậy, đừng quá để ý.
Lúc Trương Sơn Phong quay đầu, ông lão nhìn thấy vai của đồ đệ mình bị phi kiếm bản mệnh đâm thấu, lập tức giậm chân một cái, giận tím mặt nói:
- Ai dám tổn thương ngươi? Báo tên ra, vi sư... bây giờ sẽ đi quấn người cỏ của hắn!
Trương Sơn Phong đưa tay vuốt mặt một cái, gặp phải một sư phụ như vậy, đúng là không có mặt mũi nhìn Trần Bình An nữa.
Sắc mặt Trần Bình An nghiêm túc, ôm quyền chào vị lão đạo sĩ đến từ Bắc Câu Lô Châu này.
Lão chân nhân rồng lửa vốn là thiên sư khác họ của núi Long Hổ, gật đầu với Trần Bình An, dùng tiếng lòng dứt khoát nói với hắn: “Thằng nhóc, cầu trường sinh của ngươi bị người ta hủy rồi, đang xây dựng lại đúng không? Cũng hơi gập ghềnh. Có điều vật bản mệnh ngũ hành thủy mà ngươi luyện hóa hiện giờ, đúng là tiên khí đầy đủ. Ừm, không tệ, không tệ.”
Lão chân nhân lại nhìn Trương Sơn Phong, bảo hắn vươn tay ra, còn mình thì khép hai ngón tay lại, vẽ bùa trong lòng bàn tay Trương Sơn Phong. Sau khi bùa thành, ông ta vung tay áo lên, ánh sáng vàng lập lòe, trong nháy mắt lại tắt đi. Sau đó thanh Chân Vũ kiếm và đoản đao của Từ Viễn Hà vốn tạm thời để ở phủ đại đô đốc, bỗng nhiên rớt xuống trước mặt.
Trương Sơn Phong không hề ngạc nhiên, đưa tay cầm lấy Chân Vũ kiếm và đoản đao, không quên quay đầu giải thích với Trần Bình An:
- Sư phụ ta tu vi không cao, chuyện khác không biết, nhưng rất sở trường những thủ đoạn bất chính này.
Lão chân nhân vuốt râu cười, vẻ mặt đắc ý. Bị đệ tử thân truyền vạch khuyết điểm như vậy, lại không cho rằng sỉ nhục, ngược lại cho rằng vinh quang.
Trần Bình An nhìn Trương Sơn Phong, lại nhìn lão đạo sĩ hai tay áo thêu rồng lửa. Hắn tự hỏi liệu có phải Trương Sơn Phong quá dửng dưng với người bên cạnh, hiểu sai về sư phụ mình hay không.
Lão chân nhân nhìn như tùy tiện dùng mũi chân “nguệch ngoạc” dưới đất một trận, trên phiến đá xanh không có đấu vết gì, sau đó lại bảo Trương Sơn Phong đứng vào trong. Trương Sơn Phong muốn nói lại thôi. Lão chân nhân nói với giọng điệu chắc nịch:
- Vi sư muốn dẫn ngươi đến núi Long Hổ một chuyến.
Trương Sơn Phong đi vào trong “bùa chú” giống như không tồn tại kia, ném đoản đao trong tay cho Trần Bình An, cười khổ nói:
- Giúp ta xin lỗi Từ đại ca một tiếng, quá vội vàng, đành phải không từ mà biệt.
Trần Bình An chụp lấy đoản đao của Từ Viễn Hà, nhớ tới một chuyện, liền từ trong vật một tấc lấy ra hộp gỗ màu xanh, ném cho Trương Sơn Phong, nói:
- Bên trong là một pháp ấn của lầu Thành Hoàng quận Yên Chi nước Thải Y, tặng cho ngươi, tốt nhất là phối hợp với ngũ lôi chính pháp để sử dụng.
Trương Sơn Phong thấy hộp gỗ cổ xưa có vẻ rất bình thường, bèn yên tâm cất vào trong người.
Lão chân nhân đột nhiên híp mắt, trong phút chốc lại khôi phục bình thường, cười nói với Trần Bình An:
- Ngươi hãy nói một yêu cầu. Ta đếm tới mười, quá hạn không chờ.
Trần Bình An không hề do dự nói:
- Vậy làm phiền lão chân nhân truyền thụ cho Trương Sơn Phong một chút đạo pháp cao thâm, khẩn cầu lão chân nhân... dụng tâm một chút.
Lão chân nhân thoải mái cười lớn, đưa tay chỉ vào Trần Bình An, tấm tắc nói:
- Thằng nhóc giỏi lắm, bóng gió mắng người.
Ông ta đưa tay nắm lấy Trương Sơn Phong, thân hình hai người nhoáng lên rồi biến mất. Trần Bình An phát hiện linh khí mỏng manh xung quanh con ngõ không hề dao động.
Trần Bình An lâm vào trầm tư. Bùi Tiền kéo kéo ống tay áo của hắn, hỏi:
- Làm sao đây?
Trần Bình An khôi phục tinh thần, cười nói:
- Đi ăn cơm.
- --------
Chú thích:
(2) Phiến Nhi Xuyên: một món mì nổi tiếng của Hàng Châu, được nấu với các loại nguyên liệu như rau cải, măng, thịt nạc thái miếng.
(3) Đấu củng: một loại kết cấu đặc biệt của kiến trúc Trung Hoa, gồm những thanh ngang từ trụ cột chìa ra gọi là củng và những trụ kê hình vuông chèn giữa các củng gọi là đấu.