Hình Như Tôi Đã Uống Một Tách Trà Giả
Chương 6
Sau khi học xong về Phổ Nhĩ, đã đến lúc bắt đầu ôn tập để chuẩn bị cho kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp.
Kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp chia thành hai phần: phần văn và phần võ. Phần văn là thi lý thuyết trên giấy, còn phần võ là thực hành pha trà Bạch Mẫu Đơn. Để có cơ hội gặp Diệp Thanh Hữu nhiều hơn, mỗi ngày tôi đều đến Hòa Quang để luyện thực hành, làm hao mòn mất nửa bánh trà Bạch Mẫu Đơn mà anh yêu quý. Pha đến mức anh xót trà đến không chịu nổi, nói rằng tôi luyện cũng khá rồi, bảo tôi mau đi thi đi, anh cảm thấy kỹ thuật của tôi đã thành thạo, chắc chắn thi một lần sẽ qua.
Nhận được lời khẳng định từ nam thần, tôi vô cùng phấn chấn xung phong đi thi ngay lập tức.
Kỳ thi sơ cấp và trung cấp đều do Diệp Thanh Hữu làm giám khảo, chỉ có kỳ thi cao cấp mới phải nộp lên hiệp hội để xét duyệt và xếp hạng. Khi tôi pha trà, Diệp Thanh Hữu ngồi đối diện nhìn tôi, bình thường tôi pha trà rất nhẹ nhàng, nhưng giờ lại run từ cổ tay đến đầu ngón tay.
Tôi theo trà lễ chỉnh đốn trang phục, rửa tay, ngồi xuống sau bàn trà, hít một hơi thật sâu, cúi chào, rồi dùng giọng run rẩy tự giới thiệu. Sau khi giới thiệu xong là đun nước, trong lúc chờ nước sôi, tôi lần lượt giới thiệu bộ dụng cụ pha trà trên bàn với người đối diện. Giới thiệu xong thì cho trà vào bát có nắp, nước cũng đã sôi, bắt đầu rửa trà, tráng ấm chén, rồi rót nước trà lần đầu, châm trà.
Trong suốt quá trình, Diệp Thanh Hữu yên lặng và dịu dàng quan sát tôi. Lúc đó tôi hoàn toàn hiểu được tâm trạng của Lưu Mộng Mai: Khi trước mặt bạn có một người mà bạn đã mơ tưởng vô số lần, người ấy phù hợp với mọi tưởng tượng của bạn, đột nhiên từ bức tranh, từ cõi mộng của bạn bước ra ngồi đối diện, dùng đôi mắt ấm áp và mỉm cười nhìn bạn chăm chú, đầu óc bạn sẽ hoàn toàn trống rỗng, không thể suy nghĩ cũng chẳng thể nói gì.
Nước trà màu xanh vàng nhạt như cỏ non chảy ra từ chiếc bình trong suốt, rót vào chén sứ tinh xảo trước mặt, đổ đầy bảy phần. Dưới đáy chén, hai con cá chép đỏ tươi như thể đang bơi lội, sát lại gần đến mức như đang hôn nhau.
Tôi lấy lót chén đặt chén trà vào trong, hai tay cầm chén lên, cúi đầu dâng trà.
Tôi thật sự rất thích cách Diệp Thanh Hữu giải thích bước này cho tôi. Hai tay dâng trà, nâng khay ngang mày. Như thể giữa chúng tôi có mối tình lặng lẽ đã nảy sinh từ lâu.
Diệp Thanh Hữu khép ba ngón tay lại, dùng phần bụng ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn, ba ngón tay khép lại thành thế ba con rồng bảo vệ đỉnh, nâng chén trà lên, uống một ngụm. Tôi lo lắng quan sát sắc mặt của anh qua khóe mắt, vẫn là nét bình thản không có biểu hiện gì, nhưng trong lòng tôi đột nhiên nặng trĩu như một tảng đá ngàn cân. Tôi hít thở sâu một lần nữa, thầm nhắc mình phải bình tĩnh, sau đó tiếp tục rót cho anh chén trà thứ hai.
Diệp Thanh Hữu lại gõ nhẹ lên bàn.
Lần này, anh khép ngón trỏ và ngón giữa lại cong lại, làm động tác gõ bàn để cảm ơn, dùng đốt ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn.
Trà lễ có năm loại. Ở trà thất, tôi thường thấy bốn loại trong số đó: lễ chìa tay, lễ gật đầu, lễ rót trà và lễ gõ ngón tay.
Trong đó, lễ gõ ngón tay lại chia thành bốn loại: gõ một ngón, hai ngón, ba ngón và gõ ngón cong. Gõ một ngón lên bàn là để đối với người nhỏ tuổi hơn hoặc bạn bè đồng lứa; gõ hai ngón là để tỏ lòng kính trọng đối với bậc trưởng bối, cấp trên hoặc bạn bè thân thiết; gõ ba ngón là để thay mặt cho những người bạn không hiểu lễ trà cảm ơn nghệ nhân nhà. Gõ ngón cong là hình thức trang trọng hơn, thường có hai cách dùng: một là khi được bậc trưởng bối có đức cao vọng trọng rót trà, thể hiện lòng biết ơn; hai là khi khen ngợi kỹ thuật của nghệ nhân trà, ý là trà pha rất ngon.
Tôi có cảm giác như mình sắp bay lên.
Nam thần khen tôi pha trà ngon.
Nam thần khen tôi pha trà ngon!
A a a a, nam thần khen tôi pha trà ngon!!!
Tôi phấn khích đến mức không thể kiềm chế, gần như lập tức lắc lư trên bàn trà: “Thầy Diệp, thầy Diệp! Thầy xem em có qua bài thi không!”
Diệp Thanh Hữu trầm ngâm một lát, cúi xuống nhìn bảng điểm trong tay, nói: “… Em bị trừ điểm ở chỗ rất kỳ lạ.”
Một chậu nước lạnh tạt thẳng xuống đầu, tôi lập tức xẹp xuống, nhỏ giọng hỏi: “Em bị trừ điểm ở đâu ạ…?”
“Bước cuối cùng,” Diệp Thanh Hữu đưa bảng điểm cho tôi. “Sau khi khách thưởng trà xong, lẽ ra em phải hỏi cảm nhận của khách về trà và trao đổi về việc thưởng trà, nhưng em lại hỏi thẳng xem đã qua chưa.”
Tôi ỉu xìu nhận lấy bảng điểm, vừa nghĩ có lẽ mình phải thi lại, thì nghe Diệp Thanh Hữu nói tiếp: “Nhưng dù sao vẫn chúc mừng em.”
Phía trên cùng của bảng điểm, ở mục kết quả, rực rỡ một chữ “99” được tô đỏ.
Diệp Thanh Hữu nói: “Em là học viên có điểm thực hành cao nhất trong lịch sử của Hòa Quang.”
Kỳ thi thực hành đã được tôi vượt qua với kết quả gần như hoàn hảo, chỉ còn lại phần thi lý thuyết. Diệp Thanh Hữu đưa tôi hai bộ đề thi thử, bảo tôi mang về làm, làm xong thì quay lại để anh giảng giải. Tôi cứ nghĩ sau khi tốt nghiệp cấp ba sẽ không bao giờ phải gặp lại đề thi thử nữa, mà giờ lại phải đối mặt với chúng, đầu óc tôi căng phồng như hai vạn cái đầu cộng lại. Vậy mà Văn Bạch Hoa còn vừa chơi game vừa cười nhạo tôi, nói người nặng hơn một trăm cân rồi mà còn ôn lại thanh xuân, làm tôi tức đến mức suýt nhổ hết sen cậu ta trồng để nấu canh.
Đồ ỉn lười chẳng hiểu gì về tình yêu và lý tưởng!
À quên nói, gần đây Văn Bạch Hoa bị lời giới thiệu của Vương Đại Chúc ảnh hưởng mà bắt đầu trồng hoa, ngày nào cũng ôm mấy hạt sen yêu quý của mình mà hồn bay phách lạc. Tôi cảm thấy bây giờ chỉ có mình tôi là người bình thường nhất trong ký túc xá, Vương Đại Chúc thì xu hướng tính dục là ngoặc đơn, ngoặc kép và đồ cổ, còn xu hướng tính dục của Văn Bạch Hoa là thực vật. Nghĩ kỹ lại thì tôi chỉ là một tên gay thôi, dù tôi có xu hướng tính dục là gay cũng dễ được chấp nhận hơn họ nhiều.
Theo kế hoạch ban đầu, kỳ thi sẽ diễn ra vào cuối tuần. Nhưng đến thứ Năm, đàn anh Trần Quân bỗng nhiên đăng một tin nhắn trong nhóm bạn trà, nói anh ta rất thích chùa Linh Tuyền, nhưng thấy môi trường vệ sinh xung quanh chùa quá tệ, cảm thấy rất đáng tiếc. Anh ta hỏi chúng tôi xem cuối tuần có ai rảnh không, nếu rảnh thì có thể tổ chức một chuyến đạp xe đến chùa Linh Tuyền để làm tình nguyện. Tôi có chút động lòng, nhưng lại lo lắng thời gian thi và việc tình nguyện sẽ trùng nhau. Đang lúc băn khoăn thì Diệp Thanh Hữu bất ngờ gọi điện cho tôi, hỏi tôi có muốn tham gia hoạt động không.
Tôi nói: “Em cũng khá hứng thú, nhưng kỳ thi…”
Diệp Thanh Hữu nói: “Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi. Thi lúc nào cũng thi được, nhưng những hoạt động như thế này rất hiếm có.”
Tôi: “Đàn anh Diệp em yêu anh.”
Thế là kỳ thi được dời lại sang tuần sau.
Trường tôi nằm ở vùng quê, quê đến mức nào ư, ngồi xe buýt đến trạm tàu điện ngầm gần nhất mất hai tiếng. Học kỳ trước có một người hàng xóm sống cùng thành phố với tôi nhưng học ở trung tâm thành phố, chúng tôi cùng xuất phát từ trường để về Quảng Châu, khi cậu ta về đến nhà, cậu gọi điện hỏi tôi đã đến đâu rồi, tôi nói mình vừa tới ga tàu cao tốc, còn chưa lên tàu nữa.
Từ trường đến bến xe buýt mất một tiếng, từ bến xe buýt đến trạm tàu điện ngầm mất hai tiếng, từ trạm tàu điện ngầm đến ga tàu cao tốc mất thêm một tiếng nữa. Hoàn toàn không có gì sai.
Từ đó có thể thấy, đường đi xe đạp đến chùa Linh Tuyền tệ đến mức nào.
Đạp xe trong 20 phút, đến khi tôi đến chùa thì người đã mệt như chó, ngồi xổm trước cổng chùa, vừa thở hổn hển vừa chào hỏi con chó vàng canh cửa, nó còn “gâu gâu” đáp lại.
Diệp Thanh Hữu thì vẫn rất ung dung, không hề đổ mồ hôi cũng không thở dốc. Tôi cứ nghĩ anh ấy suốt ngày ngồi uống trà đọc sách ở trà thất thì sẽ yếu ớt lắm, không ngờ sức khỏe lại tốt như vậy. Dáng vẻ đàn anh Trần Quân cũng rất quen thuộc, chỉ là vừa vào chùa thì bị con chó vàng đuổi chạy tán loạn. Con chó lông vàng to lớn cứ muốn đứng lên ôm lấy eo anh ta, thở phì phò liếm mặt, anh ta vừa hét “ôi trời, hôi quá” vừa chạy trốn, Vương Đại Chúc đứng phía sau cười ngả nghiêng.
Tận mắt thấy chùa Linh Tuyền, tôi mới nhận ra việc Diệp Thanh Hữu và Trần Quân gọi nơi này là “chùa” thực sự đã quá tôn vinh nó. Bốn phía đều hoang dã, giữa rừng cây ẩn hiện vài căn nhà lụp xụp như khu ổ chuột, giữa đống hoang tàn là một ngôi chùa đổ nát, không có tường, phía sau chùa là một ngọn đồi nhỏ, trên đỉnh đồi là tượng Quan Âm Nam Hải. Trong đồng hoang đầy rác nhựa và giấy ăn, ai không biết còn tưởng đây là bãi rác tái chế.
Diệp Thanh Hữu bảo với tôi ngôi chùa này do dân làng gần đó góp tiền xây dựng, có thể không được quy củ lắm, nhưng anh rất thích vì nơi đây đầy tình người. Thỉnh thoảng anh còn cùng trụ trì ở chùa uống trà luận đạo, vào cuối tuần chùa có tổ chức các buổi giảng mở cho phụ nữ và trẻ em trong làng, giảng về quốc học và giải thích kinh Phật.
Chúng tôi leo lên ngọn đồi nhỏ qua những bậc thang đá lởm chởm, lần lượt vái lạy tượng Quan Âm Nam Hải.
Tôi hỏi Diệp Thanh Hữu: “Em không theo Phật giáo, cũng phải lạy sao?” Diệp Thanh Hữu đáp: “Lạy đi, đã đến đây rồi, coi như chào hỏi cũng nên lạy một lạy. Em có thể không tôn thờ Người như một tín ngưỡng, nhưng em nên giữ trong lòng một sự kính trọng.”
Thế là tôi quỳ xuống đệm trước Phật, chắp tay trước ngực, thành kính lạy ba lạy.
Khi tôi ngẩng đầu lên, thoáng thấy trong khóe mắt tượng Quan Âm mạ vàng ấy khẽ cúi xuống, dùng một ánh mắt từ bi mà hiền hòa mỉm cười với tôi. Vừa lạy, tôi vừa nghĩ thầm, nếu chư Phật có linh thiêng, có thể nghe thấy lời cầu nguyện của chúng sinh, thì tôi xin Phật, hãy cho tôi trở thành người như đàn anh Diệp Thanh Hữu.
Xin hãy cho tôi trở thành một người thuần khiết, tập trung và luôn mang trong lòng sự dịu dàng như thế.
–
Kỳ thi nghệ nhân trà sơ cấp chia thành hai phần: phần văn và phần võ. Phần văn là thi lý thuyết trên giấy, còn phần võ là thực hành pha trà Bạch Mẫu Đơn. Để có cơ hội gặp Diệp Thanh Hữu nhiều hơn, mỗi ngày tôi đều đến Hòa Quang để luyện thực hành, làm hao mòn mất nửa bánh trà Bạch Mẫu Đơn mà anh yêu quý. Pha đến mức anh xót trà đến không chịu nổi, nói rằng tôi luyện cũng khá rồi, bảo tôi mau đi thi đi, anh cảm thấy kỹ thuật của tôi đã thành thạo, chắc chắn thi một lần sẽ qua.
Nhận được lời khẳng định từ nam thần, tôi vô cùng phấn chấn xung phong đi thi ngay lập tức.
Kỳ thi sơ cấp và trung cấp đều do Diệp Thanh Hữu làm giám khảo, chỉ có kỳ thi cao cấp mới phải nộp lên hiệp hội để xét duyệt và xếp hạng. Khi tôi pha trà, Diệp Thanh Hữu ngồi đối diện nhìn tôi, bình thường tôi pha trà rất nhẹ nhàng, nhưng giờ lại run từ cổ tay đến đầu ngón tay.
Tôi theo trà lễ chỉnh đốn trang phục, rửa tay, ngồi xuống sau bàn trà, hít một hơi thật sâu, cúi chào, rồi dùng giọng run rẩy tự giới thiệu. Sau khi giới thiệu xong là đun nước, trong lúc chờ nước sôi, tôi lần lượt giới thiệu bộ dụng cụ pha trà trên bàn với người đối diện. Giới thiệu xong thì cho trà vào bát có nắp, nước cũng đã sôi, bắt đầu rửa trà, tráng ấm chén, rồi rót nước trà lần đầu, châm trà.
Trong suốt quá trình, Diệp Thanh Hữu yên lặng và dịu dàng quan sát tôi. Lúc đó tôi hoàn toàn hiểu được tâm trạng của Lưu Mộng Mai: Khi trước mặt bạn có một người mà bạn đã mơ tưởng vô số lần, người ấy phù hợp với mọi tưởng tượng của bạn, đột nhiên từ bức tranh, từ cõi mộng của bạn bước ra ngồi đối diện, dùng đôi mắt ấm áp và mỉm cười nhìn bạn chăm chú, đầu óc bạn sẽ hoàn toàn trống rỗng, không thể suy nghĩ cũng chẳng thể nói gì.
Nước trà màu xanh vàng nhạt như cỏ non chảy ra từ chiếc bình trong suốt, rót vào chén sứ tinh xảo trước mặt, đổ đầy bảy phần. Dưới đáy chén, hai con cá chép đỏ tươi như thể đang bơi lội, sát lại gần đến mức như đang hôn nhau.
Tôi lấy lót chén đặt chén trà vào trong, hai tay cầm chén lên, cúi đầu dâng trà.
Tôi thật sự rất thích cách Diệp Thanh Hữu giải thích bước này cho tôi. Hai tay dâng trà, nâng khay ngang mày. Như thể giữa chúng tôi có mối tình lặng lẽ đã nảy sinh từ lâu.
Diệp Thanh Hữu khép ba ngón tay lại, dùng phần bụng ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn, ba ngón tay khép lại thành thế ba con rồng bảo vệ đỉnh, nâng chén trà lên, uống một ngụm. Tôi lo lắng quan sát sắc mặt của anh qua khóe mắt, vẫn là nét bình thản không có biểu hiện gì, nhưng trong lòng tôi đột nhiên nặng trĩu như một tảng đá ngàn cân. Tôi hít thở sâu một lần nữa, thầm nhắc mình phải bình tĩnh, sau đó tiếp tục rót cho anh chén trà thứ hai.
Diệp Thanh Hữu lại gõ nhẹ lên bàn.
Lần này, anh khép ngón trỏ và ngón giữa lại cong lại, làm động tác gõ bàn để cảm ơn, dùng đốt ngón tay gõ nhẹ lên mặt bàn.
Trà lễ có năm loại. Ở trà thất, tôi thường thấy bốn loại trong số đó: lễ chìa tay, lễ gật đầu, lễ rót trà và lễ gõ ngón tay.
Trong đó, lễ gõ ngón tay lại chia thành bốn loại: gõ một ngón, hai ngón, ba ngón và gõ ngón cong. Gõ một ngón lên bàn là để đối với người nhỏ tuổi hơn hoặc bạn bè đồng lứa; gõ hai ngón là để tỏ lòng kính trọng đối với bậc trưởng bối, cấp trên hoặc bạn bè thân thiết; gõ ba ngón là để thay mặt cho những người bạn không hiểu lễ trà cảm ơn nghệ nhân nhà. Gõ ngón cong là hình thức trang trọng hơn, thường có hai cách dùng: một là khi được bậc trưởng bối có đức cao vọng trọng rót trà, thể hiện lòng biết ơn; hai là khi khen ngợi kỹ thuật của nghệ nhân trà, ý là trà pha rất ngon.
Tôi có cảm giác như mình sắp bay lên.
Nam thần khen tôi pha trà ngon.
Nam thần khen tôi pha trà ngon!
A a a a, nam thần khen tôi pha trà ngon!!!
Tôi phấn khích đến mức không thể kiềm chế, gần như lập tức lắc lư trên bàn trà: “Thầy Diệp, thầy Diệp! Thầy xem em có qua bài thi không!”
Diệp Thanh Hữu trầm ngâm một lát, cúi xuống nhìn bảng điểm trong tay, nói: “… Em bị trừ điểm ở chỗ rất kỳ lạ.”
Một chậu nước lạnh tạt thẳng xuống đầu, tôi lập tức xẹp xuống, nhỏ giọng hỏi: “Em bị trừ điểm ở đâu ạ…?”
“Bước cuối cùng,” Diệp Thanh Hữu đưa bảng điểm cho tôi. “Sau khi khách thưởng trà xong, lẽ ra em phải hỏi cảm nhận của khách về trà và trao đổi về việc thưởng trà, nhưng em lại hỏi thẳng xem đã qua chưa.”
Tôi ỉu xìu nhận lấy bảng điểm, vừa nghĩ có lẽ mình phải thi lại, thì nghe Diệp Thanh Hữu nói tiếp: “Nhưng dù sao vẫn chúc mừng em.”
Phía trên cùng của bảng điểm, ở mục kết quả, rực rỡ một chữ “99” được tô đỏ.
Diệp Thanh Hữu nói: “Em là học viên có điểm thực hành cao nhất trong lịch sử của Hòa Quang.”
Kỳ thi thực hành đã được tôi vượt qua với kết quả gần như hoàn hảo, chỉ còn lại phần thi lý thuyết. Diệp Thanh Hữu đưa tôi hai bộ đề thi thử, bảo tôi mang về làm, làm xong thì quay lại để anh giảng giải. Tôi cứ nghĩ sau khi tốt nghiệp cấp ba sẽ không bao giờ phải gặp lại đề thi thử nữa, mà giờ lại phải đối mặt với chúng, đầu óc tôi căng phồng như hai vạn cái đầu cộng lại. Vậy mà Văn Bạch Hoa còn vừa chơi game vừa cười nhạo tôi, nói người nặng hơn một trăm cân rồi mà còn ôn lại thanh xuân, làm tôi tức đến mức suýt nhổ hết sen cậu ta trồng để nấu canh.
Đồ ỉn lười chẳng hiểu gì về tình yêu và lý tưởng!
À quên nói, gần đây Văn Bạch Hoa bị lời giới thiệu của Vương Đại Chúc ảnh hưởng mà bắt đầu trồng hoa, ngày nào cũng ôm mấy hạt sen yêu quý của mình mà hồn bay phách lạc. Tôi cảm thấy bây giờ chỉ có mình tôi là người bình thường nhất trong ký túc xá, Vương Đại Chúc thì xu hướng tính dục là ngoặc đơn, ngoặc kép và đồ cổ, còn xu hướng tính dục của Văn Bạch Hoa là thực vật. Nghĩ kỹ lại thì tôi chỉ là một tên gay thôi, dù tôi có xu hướng tính dục là gay cũng dễ được chấp nhận hơn họ nhiều.
Theo kế hoạch ban đầu, kỳ thi sẽ diễn ra vào cuối tuần. Nhưng đến thứ Năm, đàn anh Trần Quân bỗng nhiên đăng một tin nhắn trong nhóm bạn trà, nói anh ta rất thích chùa Linh Tuyền, nhưng thấy môi trường vệ sinh xung quanh chùa quá tệ, cảm thấy rất đáng tiếc. Anh ta hỏi chúng tôi xem cuối tuần có ai rảnh không, nếu rảnh thì có thể tổ chức một chuyến đạp xe đến chùa Linh Tuyền để làm tình nguyện. Tôi có chút động lòng, nhưng lại lo lắng thời gian thi và việc tình nguyện sẽ trùng nhau. Đang lúc băn khoăn thì Diệp Thanh Hữu bất ngờ gọi điện cho tôi, hỏi tôi có muốn tham gia hoạt động không.
Tôi nói: “Em cũng khá hứng thú, nhưng kỳ thi…”
Diệp Thanh Hữu nói: “Nếu em muốn đi thì chúng ta cùng đi. Thi lúc nào cũng thi được, nhưng những hoạt động như thế này rất hiếm có.”
Tôi: “Đàn anh Diệp em yêu anh.”
Thế là kỳ thi được dời lại sang tuần sau.
Trường tôi nằm ở vùng quê, quê đến mức nào ư, ngồi xe buýt đến trạm tàu điện ngầm gần nhất mất hai tiếng. Học kỳ trước có một người hàng xóm sống cùng thành phố với tôi nhưng học ở trung tâm thành phố, chúng tôi cùng xuất phát từ trường để về Quảng Châu, khi cậu ta về đến nhà, cậu gọi điện hỏi tôi đã đến đâu rồi, tôi nói mình vừa tới ga tàu cao tốc, còn chưa lên tàu nữa.
Từ trường đến bến xe buýt mất một tiếng, từ bến xe buýt đến trạm tàu điện ngầm mất hai tiếng, từ trạm tàu điện ngầm đến ga tàu cao tốc mất thêm một tiếng nữa. Hoàn toàn không có gì sai.
Từ đó có thể thấy, đường đi xe đạp đến chùa Linh Tuyền tệ đến mức nào.
Đạp xe trong 20 phút, đến khi tôi đến chùa thì người đã mệt như chó, ngồi xổm trước cổng chùa, vừa thở hổn hển vừa chào hỏi con chó vàng canh cửa, nó còn “gâu gâu” đáp lại.
Diệp Thanh Hữu thì vẫn rất ung dung, không hề đổ mồ hôi cũng không thở dốc. Tôi cứ nghĩ anh ấy suốt ngày ngồi uống trà đọc sách ở trà thất thì sẽ yếu ớt lắm, không ngờ sức khỏe lại tốt như vậy. Dáng vẻ đàn anh Trần Quân cũng rất quen thuộc, chỉ là vừa vào chùa thì bị con chó vàng đuổi chạy tán loạn. Con chó lông vàng to lớn cứ muốn đứng lên ôm lấy eo anh ta, thở phì phò liếm mặt, anh ta vừa hét “ôi trời, hôi quá” vừa chạy trốn, Vương Đại Chúc đứng phía sau cười ngả nghiêng.
Tận mắt thấy chùa Linh Tuyền, tôi mới nhận ra việc Diệp Thanh Hữu và Trần Quân gọi nơi này là “chùa” thực sự đã quá tôn vinh nó. Bốn phía đều hoang dã, giữa rừng cây ẩn hiện vài căn nhà lụp xụp như khu ổ chuột, giữa đống hoang tàn là một ngôi chùa đổ nát, không có tường, phía sau chùa là một ngọn đồi nhỏ, trên đỉnh đồi là tượng Quan Âm Nam Hải. Trong đồng hoang đầy rác nhựa và giấy ăn, ai không biết còn tưởng đây là bãi rác tái chế.
Diệp Thanh Hữu bảo với tôi ngôi chùa này do dân làng gần đó góp tiền xây dựng, có thể không được quy củ lắm, nhưng anh rất thích vì nơi đây đầy tình người. Thỉnh thoảng anh còn cùng trụ trì ở chùa uống trà luận đạo, vào cuối tuần chùa có tổ chức các buổi giảng mở cho phụ nữ và trẻ em trong làng, giảng về quốc học và giải thích kinh Phật.
Chúng tôi leo lên ngọn đồi nhỏ qua những bậc thang đá lởm chởm, lần lượt vái lạy tượng Quan Âm Nam Hải.
Tôi hỏi Diệp Thanh Hữu: “Em không theo Phật giáo, cũng phải lạy sao?” Diệp Thanh Hữu đáp: “Lạy đi, đã đến đây rồi, coi như chào hỏi cũng nên lạy một lạy. Em có thể không tôn thờ Người như một tín ngưỡng, nhưng em nên giữ trong lòng một sự kính trọng.”
Thế là tôi quỳ xuống đệm trước Phật, chắp tay trước ngực, thành kính lạy ba lạy.
Khi tôi ngẩng đầu lên, thoáng thấy trong khóe mắt tượng Quan Âm mạ vàng ấy khẽ cúi xuống, dùng một ánh mắt từ bi mà hiền hòa mỉm cười với tôi. Vừa lạy, tôi vừa nghĩ thầm, nếu chư Phật có linh thiêng, có thể nghe thấy lời cầu nguyện của chúng sinh, thì tôi xin Phật, hãy cho tôi trở thành người như đàn anh Diệp Thanh Hữu.
Xin hãy cho tôi trở thành một người thuần khiết, tập trung và luôn mang trong lòng sự dịu dàng như thế.
–