Đoàn Tàu Trong Sương Mù
Chương 32
Cả thế giới chìm vào thinh không, chỉ còn lại tiếng ù ù của lò sưởi điện trong góc.
Văn Tuyết lùi lại một bước, siết lấy tay nắm cửa, giọng điệu lạnh lẽo: “Không phải việc của anh.”
Trước khi cô đóng cửa, Phương Hàn Tẫn mặt không đổi sắc tiến lên trước một bước, vươn tay chống lấy khung cửa.
Anh hỏi, “Em đã đi khám tâm lý bao giờ chưa?”
Văn Tuyết ngẩng phắt đầu lên nhìn anh, trong đáy mắt thoáng hiện vẻ kinh ngạc.
Nhất định anh đã đoán được gì đó rồi, nếu không anh sẽ không bất ngờ hỏi một câu như vậy.
Phương Hàn Tẫn tiếp tục lấn tới, trở tay đóng cửa lại, gió tuyết bị ngăn cách bên ngoài.
“Em theo chuyên ngành sư phạm, chắc chắn đã học tâm lý học rồi đúng không? Vậy nên em hiểu rõ vấn đề tâm lý của em hơn bất cứ ai.”
Anh nhìn xoáy vào mắt cô, gằn từng chữ: “Có một thời gian anh gặp vấn đề tâm lý rất nghiêm trọng, gần như đi đến quyết định tự sát. Khoảng thời gian đó, ngoài việc phải thường xuyên gặp bác sĩ tâm lý ra anh cũng tự học được một vài kiến thức về tâm lý học. Em biết không, em khiến anh cảm giác em chính là chú voi trong rạp xiếc kia.”
Những con voi trong rạp xiếc bị xích vào gốc cây từ khi còn bé, mỗi khi chúng cố gắng thoát thân, chân của chúng sẽ bị xích sắt cạ rướm máu, không những thế còn bị mấy tay huấn luyện quất roi vào người.
Theo thời gian, chúng từ bỏ ý định bứt khỏi dây xích. Thậm chí cả khi trưởng thành, chúng có được sức mạnh gấp mấy hồi nhỏ, những người huấn luyện lúc này không thể thuần phục được chúng nữa, chúng vẫn không dám chạy trốn thêm một lần nào.
Tất nhiên Văn Tuyết đã từng học về trường hợp tâm lý kinh điển này, nhưng cô chưa từng ví von mình với chú voi kia.
Cô cùng lắm chỉ là một con khỉ, một nhân vật tầm thường nhất rạp xiếc.
Phương Hàn Tẫn ôn tồn: “Nó không biết, chỉ cần nó nhẹ nhàng nhấc chân là có thể phá tan xiềng xích, đạp ngã những kẻ thuần hóa kia, xông ra thế giới bên ngoài.”
Văn Tuyết cười trong sự hoảng loạn, cô lẩm bẩm: “Thế giới bên ngoài có gì tốt? Biết đâu chú voi ấy vui vẻ ở rạp xiếc cả đời thì sao?”
Phương Hàn Tẫn vạch trần cô không chút nể tình: “Nếu vui, vậy tại sao em lại chạy trốn đến đây? Tại sao không tiếp tục ở bên cạnh bố mẹ, tìm một công việc an nhàn ổn định, sau đó kết hôn với Tôn Hách Minh?”
Văn Tuyết quay đi, lảng tránh ánh mắt của anh, “Nguyên nhân em đến đây, em đã giải thích cho anh rất nhiều lần dọc đường đi rồi.”
“Nhưng em vẫn giấu nửa câu sau, đúng không?”
Văn Tuyết nheo mắt, mím môi không đáp lại.
Phương Hàn Tẫn đỡ vai cô, trịnh trọng nói: “Văn Tuyết, tự tử không phải là chuyện đáng xấu hổ, anh tin nhiều người cũng từng nghĩ đến chuyện này. Dầu gì cuộc sống cũng không dễ dàng với tất cả mọi người.”
Văn Tuyết gỡ tay anh ra, đến bên sofa ngồi xuống.
Cô điềm tĩnh: “Đúng, chính vì không dễ dàng nên mỗi năm mới có rất nhiều người tự sát, cũng có rất nhiều người mấp mé bên bờ vực tự sát. Chúng sinh lầm than, đối với những người này mà nói, cái chết có lẽ là một sự giải thoát.”
Phương Hàn Tẫn ngồi đối diện, đón lấy ánh mắt cô.
“Nhưng chẳng phải cũng có nhiều người chọn sống tiếp hay sao? Em ngẫm lại đi, Diệp Tử Hàng, cậu ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ăn cơm trăm họ mà lớn. Còn Trịnh Khải Nhiên, anh ấy đợi một cô gái hết bảy năm, kết quả vẫn lẻ bóng một mình. Cuộc đời họ không cay đắng ư?”
Văn Tuyết thở nặng nhọc, tựa đầu vào sofa, “Anh nói những lời này làm gì? Chứng tỏ họ thảm hơn em sao? Em có hạnh phúc hơn khi thấy cuộc sống ai đó tồi tệ hơn mình không?”
Phương Hàn Tận đứng dậy, chống hai tay lên lưng ghế sofa, nhìn thẳng vào mắt cô.
“Ý anh là, ai sống trên đời mà chẳng trải qua vài chuyện không vừa ý? Có ai không vừa muốn chết quách đi, vừa muốn nỗ lực sống tốt đâu? Chết thì dễ, cứ đứng trên nóc nhà nhảy xuống là hết. Nhưng làm vậy có ý nghĩa gì. Sao mình không thử sống tiếp, biết đâu điều tốt đẹp đang chờ em phía trước.”
Văn Tuyết nhắm mắt, day trán thật mạnh.
“Em hiểu, nhưng cố gắng sống tiếp thì có nghĩa lý gì đây? Sống mà không thấy được ngày mai, sống mà chỉ như một xác chết biết đi… Đã lâu rồi em chẳng cảm nhận được hạnh phúc nữa.”
Phương Hàn Tẫn cúi người hôn lên gương mặt cô, hơi nóng phe phẩy bên tai: “Nhưng mấy ngày qua rõ ràng chúng ta rất vui vẻ. Chúng ta cùng mua sắm, cùng nhau nấu bữa tối, uống cà phê, hôn nhau, làm tình… Sống cả đời như vậy không tốt sao em?”
Xoang mũi Văn Tuyết ê ẩm, vành mắt đọng làn hơi nước.
“Quá muộn rồi…” Cô yếu ớt lắc đầu, giọng nghẹn ngào, “Phương Hàn Tẫn, anh xuất hiện quá muộn. Có lẽ hai năm trước vẫn còn có hy vọng, nhưng bây giờ nhiệt huyết của em đã bị bòn rút hết, em không có hứng thú với bất cứ thứ gì, em chán ghét bản thân, ghét tất cả mọi người. Nghĩ đến tương lai là em lại sợ…”
Mí mắt cô run rẩy, giọt sương tích tụ lại thành nước mắt trượt dài trên má.
Phương Hàn Tẫn ôm lấy mặt cô, mút đi giọt nước mắt nơi khóe môi, thì thầm bên tai cô: “Văn Tuyết, tương lai em còn có anh. Đừng sợ, anh vẫn luôn bên cạnh em mà.”
Văn Tuyết ngước đôi mắt trống rỗng nhìn anh, thều thào: “Giống như bị rơi vào một cái giếng sâu không có ánh sáng vậy, tối tăm và lạnh lẽo, em bấu vào thành giếng gắng sức trèo lên, nhưng càng vùng vẫy lại càng rơi xuống nhanh hơn… Anh hiểu cảm giác này không?”
“Anh hiểu.” Phương Hàn Tẫn nhìn sâu vào mắt cô, lặp lại từng chữ, “Văn Tuyết, anh hiểu cảm giác của em, thật lòng đấy. Vì anh từng trải qua rồi.”
Văn Tuyết bần thần nở nụ cười.
“Anh hỏi em vì sao chú voi kia không thoát khỏi xích sắt rồi trốn ra thế giới bên ngoài phải không. Có người bảo đây gọi là bất lực do học được [1], vì sau nhiều lần thất bại, nó sẽ nảy sinh ý nghĩ dù cố gắng đến đâu cũng không có kết quả, nên nó lựa chọn từ bỏ đấu tranh.”
[1] Bất lực do học được (learnt helplessness): Theo nhà tâm lý học Cherry (2020), bất lực học được định nghĩa là một hiện tượng diễn ra ở cả người và động vật, khi mà tâm trí chúng ta đã bị “cài đặt” rằng chúng ta sẽ không bao giờ có thể chống cự hay thay đổi những nỗi đau, sự khó chịu, sự muộn phiền. Sự cài đặt này không phải tự nhiên mà có, chúng được tao nên qua bao nhiêu phen thử-ngã-thử-ngã, vì thế nó mới có thêm từ học (learnt hay conditioned). Cho đến khi sự thử-ngã này đã quá đủ, cho dù có cơ hội hay khả năng trốn thoát hoặc vượt qua thử thách, chúng ta cũng không muốn cố gắng nữa.
“Thật ra voi là loài rất thông minh, nó biết mình có thể thoát thân một cách nhẹ nhàng, nhưng bên trong nó đã chết từ lâu rồi. Thế giới ngoài kia có đẹp xinh thế nào cũng đâu còn ý nghĩa gì với nó?”
“Một con voi, lẽ ra phải lớn lên trong rừng rậm, ăn quả trên cây, uống nước trong suối, tự do vui đùa trong đầm lầy. Thế mà nó lại bị giam cầm trong rạp xiếc, quanh quẩn bên cái cọc gỗ, hứng chịu làn roi của người thuần thú, học các động tác hài hước chỉ để tranh được tiếng hò reo của nhân loại. Sống một cuộc đời như vậy quả thật đáng buồn.”
“Thế giới của nó định sẵn là bóng tối, anh để nó chạy trốn, nó có thể chạy đến đâu? Chạy như điên trên đường phố đông người qua lại? Hay trốn vào một tòa nhà bằng bê tông cốt thép? Hay trong lồng sở thú? Trên đời này đâu còn chỗ nào cho nó dung thân?”
“Bất kể là voi hay người, một khi ánh sáng trong lòng đã tắt, đi đến đâu cũng chỉ thấy một màu tuyệt vọng…”
Giọng Văn Tuyết nghẹn đắng, không thốt nên lời được nữa.
Phương Hàn Tẫn nhìn cô chăm chú, vươn tay dịu dàng lau đi giọt nước mắt nơi khóe mi cô.
“Văn Tuyết, ánh sáng tắt rồi vẫn có thể thắp lại. Nếu con đường phía trước không có ánh sáng, anh nguyện làm ngọn đèn dẫn lối em.”
Văn Tuyết mấp máy môi, nụ cười chan chứa bi thương.
“Phương Hàn Tẫn, anh có cuộc sống của anh. Anh tốt nghiệp trường danh tiếng, ngoại hình ưa nhìn, lại có đầu óc kinh doanh, không vướng bận nợ nần, tương lai xán lạn. Không cần phải lãng phí thời gian với một người không có tí hy vọng nào như em.”
Phương Hàn Tẫn cúi đầu, im lặng một lát mới nhẹ giọng hỏi: “Văn Tuyết, em có bằng lòng nghe chuyện của anh không?”
“Anh đã kể với em rồi. Chuyện của bố mẹ anh, em rất tiếc, nhưng…” Văn Tuyết nói tới đây, nước mắt lại tuôn rơi.
Cô điều chỉnh nhịp thở, tiếp tục: “Nhưng mà, ít nhất anh đó có được tình yêu thương trọn vẹn, còn em thì sao? Vừa sinh ra đã bị bố mẹ ném về nông thôn sống với ông bà nội, lên tiểu học mới được đón về nhà. Em dè dặt quan sát sắc mặt họ, tranh làm việc nhà, liều mạng học tập chỉ để lấy lòng họ, nhưng rồi có ích gì? Họ chỉ xem em là công cụ kiếm tiền dưỡng lão, chưa từng yêu thương em!”
Lòng Phương Hàn Tẫn quặn thắt, khổ sở không nói nên lời, thầm nghĩ muốn ôm chặt lấy cô.
Sau một khoảng im lặng, anh thấp giọng giảng giải: “Văn Tuyết, em phải chấp nhận sự thật rằng không phải bậc cha mẹ nào cũng yêu thương con cái của họ. Những người không thương em, em không cần phải yêu thương họ, càng không cần phải dốc sức lấy lòng. Vì họ không xứng đáng.”
“Em hiểu, em cũng từng khuyên mình như thế.” Văn Tuyết gục đầu bên vai anh, suy sụp bật khóc, “Nhưng có đứa bé nào không muốn được cha mẹ mình yêu thương đâu anh?”
“Văn Tuyết…” Phương Hàn Tẫn không thốt nên lời an ủi, chỉ biết hôn lên tóc mai cô, ôm cô thật chặt.
Khóc đã đời, Văn Tuyết bèn dừng lại, khịt mũi, giọng nói khản đặc chêm chút mỉa mai: “Vả lại quan hệ giữa anh và em trai rất khăng khít, còn em thì sao? Em trai em chỉ biết tìm em đòi tiền, vì bố mẹ trọng nam khinh nữ nên từ bé nó cũng chẳng coi em ra gì, sai sử em như người giúp việc… Vậy nên so với em, cuộc sống của anh đã là hạnh phúc lắm rồi.”
Phương Hàn Tẫn từ từ buông cô ra.
Nhìn đôi mắt sưng đỏ của cô anh cũng không nén được chua xót, chỉ có thể hít thở sâu bình ổn lại tâm trạng.
“Chuyện của anh, cũng giấu đi phần sau.” Giọng anh run run, “Em còn muốn nghe chứ?”
Bầu không khí trong phòng ấm áp, cửa sổ được đóng chặt. Đèn trần đã tắt, chỉ để lại một ngọn đèn nhỏ gần sofa tỏa chùm sáng vàng dìu dịu.
Trên bàn còn đặt hai tách trà bốc hơi nóng.
Văn Tuyết ôm đầu gối rúc trong góc sofa, im lặng nghe Phương Hàn Tẫn kể lại.
“Lúc trước anh từng nói năm cuối đại học, mẹ anh bị bệnh, công ty bố anh phá sản, bán hết của cải trong nhà lẫn công ty cũng không đủ để trả nợ chứ đừng nói tới việc chạy chữa cho mẹ. Vào thời điểm đó, chi phí hóa trị và thuốc men mỗi tháng của bà ít nhất cũng năm vạn.”
“Giáo sư La biết chuyện nhà anh, cho anh mượn không ít tiền, còn kéo anh vào tổ dự án của ông. Bình thường chỉ có sinh viên tốt nghiệp mới có tư cách làm chung dự án với thầy, nhưng ông lại phá lệ mời anh vào, trả cho anh hai ngàn trợ cấp mỗi tháng. Để trả ơn ông ấy, anh đã làm việc rất chăm chỉ, năm cuối cũng không nhiều lớp, anh ngâm mình trong văn phòng mỗi ngày, giúp ông ấy tìm kiếm tài liệu, dịch thuật, phân tích dữ liệu.”
“Những người khác trong nhóm cũng là nghiên cứu sinh do một tay giáo sư La dẫn dắt. Một trong số họ có cậu sinh viên Ấn Độ tên Kumar. Cậu ta có nghe về gia đình anh nên ngỏ ý muốn giúp đỡ.”
Ấn Độ? Trong đầu Văn Tuyết bỗng hiện lên một khuôn mặt – người đàn ông cà-ri trên tàu, da sẫm màu, vẻ mặt u ám, còn tỏa ra mùi cơ thể nồng nặc.
Cô có dự cảm những gì mình sắp nghe không phải điều gì hay ho cho lắm.
Đợi đã… Ấn Độ?!
Văn Tuyết bất chợt trợn tròn mắt, giọng cao vút: “Không phải cậu ta định giúp anh…”
Lời còn chưa dứt đã bị cô dằn lại.
Suy đoán kiểu này có vẻ quá chủ quan, lỡ đâu người ta thật lòng muốn hỗ trợ thì sao?
Phương Hàn Tẫn nhếch môi, ý cười đượm chua xót.
“Em đoán không sai, cậu ta nói có thể giúp anh mua thuốc.” Ung thư giai đoạn cuối, một liệu trình thuốc ít nhất phải ngốn mất ba mươi vạn, nhưng nếu mua được thuốc điều chế từ Ấn Độ thì chỉ tốn năm ngàn tệ.
“Chuyện này…” Suy nghĩ Văn Tuyết rối bời, bao lo âu trào dâng trong lòng, “Người này có đáng tin không? Thuốc điều chế có hiệu quả tương tự thuốc thường chứ? Với lại anh muốn thuốc thông qua cậu ta liệu có bất hợp pháp không vậy?”
Tay chân Phương Hàn Tẫn lạnh cóng. Anh cầm tách trà lên nhấp một ngụm nóng, cố nén nỗi buồn vào lòng.
“Kumar nói rằng các sinh viên Ấn Độ từng tổ chức một nhóm thu mua để giúp mọi người mang thuốc từ Ấn Độ sang. Họ đã làm chuyện này rất nhiều lần trước đây và chưa có tiền lệ gặp rắc rối. Lúc ấy đúng là anh phát sầu vì chuyện thuốc men, cho nên mới…”
Anh gục đầu xuống nhìn đăm đăm vào vệt bẩn trên ghế sofa, đợi thật lâu mới tiếp lời: “Cho nên mới mua thuốc mấy lần thông qua cậu ta.”
Trái tim Văn Tuyết thắt lại, cô hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó thuốc của cậu ta càng lúc càng đắt, lúc đầu là năm ngàn, sau đó tăng lên một vạn, lần cuối cùng lên thẳng lên hai vạn.” Trên gương mặt Phương Hàn Tẫn lộ vẻ căm phẫn, “Thuốc chính hãng bán ba vạn, thuốc điều chế lại mất những hai vạn. Với lại anh có hỏi thăm rồi, nếu mua từ tiệm thuốc bên Ấn chỉ cần hai ngàn thôi, buôn giá sỉ ở xưởng dược lại càng rẻ. Nhóm người này thật sự quá tham lam, bệnh nhân ung thư trong mắt họ chỉ là cây rụng tiền. Ban đầu chào giá thấp để thu hút khách, sau đó càng ngày càng đắt, bởi vì họ nghĩ bệnh nhân ung thư sống không được bao lâu, mà người nhà bệnh nhân nhất định sẽ hao hết tiền bạc để cứu chữa. Thế nên cứ vơ vét bao nhiêu hay bấy nhiêu.”
“Lần cuối mà anh nói, có phải là…” Văn Tuyết lưỡng lự, cẩn thận cân nhắc từ ngữ, “Là trước khi mẹ anh qua đời, lần trị liệu cuối cùng à?”
Phương Hàn Tẫn lắc đầu, sắc mặt vô cùng nghiêm trọng.
Thật lâu sau, giọng nói trầm khàn của anh lại vang lên: “Anh không muốn mua thuốc từ cậu ta nữa, nhưng việc điều trị của mẹ cũng không thể chậm trễ. Trong thời gian đó, anh tình cờ biết được một tin: Dự án của giáo sư La bước vào giai đoạn nghiên cứu thực địa, ông dự định đưa vài sinh viên đi cùng. Nơi đến chính xác là Bangalore, Ấn Độ.”
Lòng Văn Tuyết chùng xuống, lập tức siết chặt nắm tay.
Phương Hàn Tẫn vô thức chà xát vết nhơ trên sofa, im lặng không biết bao lâu mới lại nhẹ giọng nói: “… Anh đã làm một chuyện sai trái.”
Văn Tuyết ngơ ngẩn nhìn theo tay anh, vết bẩn màu nâu kia đã khô từ lâu, không nhìn rõ là bị thứ gì văng lên, có lẽ là dầu mỡ, cũng có thể là máu.
“Anh đã nộp đơn xin giáo sư La cho mình đi cùng. Khi đó ông ấy rất tin tưởng anh, nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để xin thêm trợ cấp cho anh nên mới đồng ý. Trong thời gian nghiên cứu, anh đã lẻn ra ngoài, đến rất nhiều hiệu thuốc mua tất cả các loại thuốc có thể mua, đủ để mẹ anh trị liệu trong vòng một năm.”
Văn Tuyết vừa bực vừa giận, không kiềm được cao giọng hỏi: “Anh đem nhiều thuốc vậy về nước chẳng lẽ hải quan không tra ra?”
“Anh cũng lo chuyện này. Sau đó, một chủ hiệu thuốc nói với anh nếu anh muốn mang thuốc về nước, thì anh ta có cách khác – một người họ hàng của anh ta đang làm kinh doanh vận tải biển, quen biết rất rộng, miễn là anh trả đúng số tiền đó thì anh ta có thể giúp anh giải quyết suôn sẻ.”
“Trùng hợp vậy sao?” Văn Tuyết nửa tin nửa ngờ.
Phương Hàn Tẫn cười khổ, “Thật ra rất nhiều người đi Ấn Độ mua thuốc, hoặc là người nhà bệnh, hoặc là bán thuốc kiếm tiền. Ông chủ hiệu thuốc không lạ gì mấy chuyện này, vì vậy họ không chỉ bán thuốc mà còn giúp tìm cách vận chuyển hàng hoá, cái này gọi là dịch vụ trọn gói.”
“Vậy anh không gặp bất trắc gì chứ?”
Phương Hàn Tẫn khẽ lắc đầu, “Sau khi về Bắc Kinh chưa đầy một tuần, anh đã lấy được thuốc. Cả thảy chi phí tính ra ít hơn hai vạn. Biến cố duy nhất là anh mua thuốc trong vòng một năm, nhưng mẹ anh chỉ dùng được hai tháng đã đi rồi.”
Văn Tuyết cầm tay anh, đau lòng không thốt thành câu.
Mặc dù cô đã biết trước kết cục của bà Phương, nhưng mỗi lần nhớ lại, nhất là khi đặt mình vào hoàn cảnh của Phương Hàn Tẫn cô vẫn không kiềm lòng được mà thổn thức. Cuộc đời khổ sở biết bao, thế sự đúng là vô thường.
Âm thanh của Phương Hàn Tẫn như con dao cùn, chậm rãi cứa vào lòng cô: “Về sau, anh lại đi lầm đường lần nữa.”
“Mẹ mất chưa bao lâu, bố anh cũng tự sát, để lại cho anh một đứa bé hai tuổi cùng với khoảng nợ khổng lồ. Chủ nợ tìm được trường anh, xông vào ký túc xá làm ầm ĩ, còn kéo biểu ngữ dưới lầu ký túc, bắc loa hô to Cha nợ con trả…”
“Để trốn nợ, cũng để tiện chăm sóc Xuân Sinh, anh thuê một căn hộ nhỏ ngoài trường học. Sau khi trả tiền thuê, anh cũng chẳng còn một xu dính túi. Khi lâm vào ngõ cụt, anh đột nhiên nhớ tới số thuốc anh từng mua.”
“Trước đây, để chữa bệnh cho mẹ, anh được thêm vào một nhóm người thăm nuôi bệnh nhân, trong đó đều là người nhà của bệnh nhân ung thư. Anh gửi tin trong nhóm, nói rằng mẹ mình vừa qua đời, còn dư lại một số thuốc chưa tháo nhãn, nếu ai cần anh có thể bán với giá thấp.”
“Rất nhanh đã có người liên hệ với anh, chỉ trong vòng một ngày thuốc đã được bán hết, anh kiếm được năm vạn.”
Văn Tuyết siết chặt tay anh, sững sờ nhìn anh, con ngươi vì khiếp sợ mà hơi co lại.
Phương Hàn Tẫn hiểu rõ cô muốn nói gì.
“Anh biết, đây là vi phạm pháp luật. Nhưng anh thật sự không còn cách nào khác.” Anh thở dài, rút tay về day mi tâm, “Anh trả tiền cho chủ nợ, cuộc sống tạm thời trở về yên bình. Đáng tiếc không lâu sau anh bị người khác tố cáo.”
“Gì cơ?!” Văn Tuyết lập tức ngồi thẳng dậy, không dám tin nhìn anh.
Phương Hàn Tẫn quay đi, lảng tránh ánh mắt cô, điềm nhiên nói: “Lúc đó anh mới biết, Kumar, chính là cậu học sinh Ấn Độ kia, cũng ở trong nhóm đó. Kể từ khi anh đến Ấn Độ nghiên cứu, cậu ta đã nghi ngờ anh, bởi vì anh không mua thuốc từ cậu ta nữa, sau lại còn bán thuốc trong nhóm… Cậu ta tìm đến những người mua thuốc từ anh, hỏi thăm từng người một, thu thập bằng chứng, sau đó báo cáo lên trường.”
Văn Tuyết tức giận mắng: “Có phải cậu ta bệnh không! Chính cậu ta cũng là tên buôn thuốc, dựa vào đâu mà đi tố cáo người khác?”
Phương Hàn Tẫn châm chọc: “Bởi vì anh cướp mối làm ăn của cậu ta. Nếu ai cũng như anh, đến Ấn Độ mua thuốc thì băng nhóm của cậu ta tồn tại kiểu gì được?”
Vẻ mặt anh rất bình tĩnh, tựa như đã nghĩ thông rồi, nhưng Văn Tuyết vẫn tức giận không thôi. Cô dùng những lời khó nghe nhất trong từ điển của mình, đay nghiến cái tên chưa từng gặp mặt kia.
Mắng một hồi mới nhớ tới chuyện chính: “Vậy sau đó thì sao?”
“Sau đó ấy à,” Ánh mắt Phương Hàn Tẫn u tối, cổ họng đắng chát, “Sau đó anh bị trường đuổi học.”
Văn Tuyết tức thì chết lặng.
Giọng Phương Hàn Tẫn đều đều: “Cho nên dù có thư giới thiệu học nghiên cứu sinh nhưng anh không thể học tiếp được. Không thể tìm một công việc chính thức, chỉ có thể chạy việc vặt khắp nơi. Cuộc sống của anh bị hủy hoại hoàn toàn. Còn tên Kumar đó lại sống rất tốt, nghe nói sau khi tốt nghiệp cậu ta đến làm ở một công ty đa quốc gia, tiếp tục sống cuộc sống hào nhoáng của mình. Còn anh ư, qua một đêm, rơi từ tháp ngà xuống mặt đất, chẳng còn gì hết.”
Văn Tuyết trào nước mắt, nhào tới ôm lấy anh, cô nức nở: “Tại sao lại như thế? Tại sao họ làm vậy với anh? Anh đã làm gì sai chứ? Anh mua thuốc kia vốn chỉ để chữa bệnh cho mẹ mà, có phải anh muốn buôn lậu đâu! Sao anh không giải thích rõ ràng với họ?”
Cô bất bình trước những gì gã người Ấn và trường học đã làm, song nhiều hơn thế nữa, chính là sự đau lòng.
Cô thật lòng muốn trở lại khi đó, kiên định kề vai sát cánh cùng Phương Hàn Tẫn, tranh đấu vì anh, vượt qua khó khăn bên cạnh anh. Dẫu không thể giúp được gì, không thể thay đổi kết quả, thì ít nhất cô còn có thể ôm lấy anh, trao cho anh chút hơi ấm trong nỗi tuyệt vọng cùng cực.
Phương Hàn Tẫn nghiến răng, bả vai khẽ run rẩy. Mãi lâu sau, anh cũng vươn tay ghì chặt lấy cô.
Anh vùi đầu vào cổ cô, khuôn mặt nóng bỏng dán lên da thịt cô, giọng nói trầm thấp vì muốn át đi sự run rẩy: “Sau khi bị đuổi, anh tự nhốt mình trong căn phòng nhỏ, mấy ngày mấy đêm không ăn gì, không ra ngoài, người không ra người quỷ chẳng ra quỷ. Lúc ấy trong đầu anh cũng đã nung nấu ý định tự sát rồi. Nhưng rồi vẫn quyết định sống tiếp, bởi vì trong lòng anh tồn tại một tâm niệm.”
“Vì Xuân Sinh?”
“Không.” Phương Hàn Tẫn lắc đầu, “Là vì chính mình. Anh đã nghe một câu: Cái gọi là vực sâu không đáy, nếu thực sự đi xuống, phía trước là tiền đồ vạn dặm [2]. Anh đã từng ở thời khắc tăm tối nhất của cuộc đời, sau này mỗi bước đi đều hướng tới ánh sáng.”
[2] Câu này có hàm ý rằng cái thái cực của sự vật sẽ đảo ngược, khi sự vật phát triển đến mức độ nào đó, chúng sẽ biến đổi theo hướng ngược lại. Là một câu trong tác phẩm “Tố lí dĩ vãng” của Mộc Tâm.
Ngón tay anh đan vào mái tóc dày của cô, lòng bàn tay ấm áp nâng gáy cô, vuốt ve từng sợi tóc mềm mại như đang dịu dàng an ủi.
“Những lời này dành tặng cho em. Văn Tuyết, cố gắng sống vì chính mình một lần được không? Anh sẽ luôn ở cạnh em, cùng ra khỏi đáy vực sâu thẳm, đi tới tiền đồ vạn dặm.”
Văn Tuyết lùi lại một bước, siết lấy tay nắm cửa, giọng điệu lạnh lẽo: “Không phải việc của anh.”
Trước khi cô đóng cửa, Phương Hàn Tẫn mặt không đổi sắc tiến lên trước một bước, vươn tay chống lấy khung cửa.
Anh hỏi, “Em đã đi khám tâm lý bao giờ chưa?”
Văn Tuyết ngẩng phắt đầu lên nhìn anh, trong đáy mắt thoáng hiện vẻ kinh ngạc.
Nhất định anh đã đoán được gì đó rồi, nếu không anh sẽ không bất ngờ hỏi một câu như vậy.
Phương Hàn Tẫn tiếp tục lấn tới, trở tay đóng cửa lại, gió tuyết bị ngăn cách bên ngoài.
“Em theo chuyên ngành sư phạm, chắc chắn đã học tâm lý học rồi đúng không? Vậy nên em hiểu rõ vấn đề tâm lý của em hơn bất cứ ai.”
Anh nhìn xoáy vào mắt cô, gằn từng chữ: “Có một thời gian anh gặp vấn đề tâm lý rất nghiêm trọng, gần như đi đến quyết định tự sát. Khoảng thời gian đó, ngoài việc phải thường xuyên gặp bác sĩ tâm lý ra anh cũng tự học được một vài kiến thức về tâm lý học. Em biết không, em khiến anh cảm giác em chính là chú voi trong rạp xiếc kia.”
Những con voi trong rạp xiếc bị xích vào gốc cây từ khi còn bé, mỗi khi chúng cố gắng thoát thân, chân của chúng sẽ bị xích sắt cạ rướm máu, không những thế còn bị mấy tay huấn luyện quất roi vào người.
Theo thời gian, chúng từ bỏ ý định bứt khỏi dây xích. Thậm chí cả khi trưởng thành, chúng có được sức mạnh gấp mấy hồi nhỏ, những người huấn luyện lúc này không thể thuần phục được chúng nữa, chúng vẫn không dám chạy trốn thêm một lần nào.
Tất nhiên Văn Tuyết đã từng học về trường hợp tâm lý kinh điển này, nhưng cô chưa từng ví von mình với chú voi kia.
Cô cùng lắm chỉ là một con khỉ, một nhân vật tầm thường nhất rạp xiếc.
Phương Hàn Tẫn ôn tồn: “Nó không biết, chỉ cần nó nhẹ nhàng nhấc chân là có thể phá tan xiềng xích, đạp ngã những kẻ thuần hóa kia, xông ra thế giới bên ngoài.”
Văn Tuyết cười trong sự hoảng loạn, cô lẩm bẩm: “Thế giới bên ngoài có gì tốt? Biết đâu chú voi ấy vui vẻ ở rạp xiếc cả đời thì sao?”
Phương Hàn Tẫn vạch trần cô không chút nể tình: “Nếu vui, vậy tại sao em lại chạy trốn đến đây? Tại sao không tiếp tục ở bên cạnh bố mẹ, tìm một công việc an nhàn ổn định, sau đó kết hôn với Tôn Hách Minh?”
Văn Tuyết quay đi, lảng tránh ánh mắt của anh, “Nguyên nhân em đến đây, em đã giải thích cho anh rất nhiều lần dọc đường đi rồi.”
“Nhưng em vẫn giấu nửa câu sau, đúng không?”
Văn Tuyết nheo mắt, mím môi không đáp lại.
Phương Hàn Tẫn đỡ vai cô, trịnh trọng nói: “Văn Tuyết, tự tử không phải là chuyện đáng xấu hổ, anh tin nhiều người cũng từng nghĩ đến chuyện này. Dầu gì cuộc sống cũng không dễ dàng với tất cả mọi người.”
Văn Tuyết gỡ tay anh ra, đến bên sofa ngồi xuống.
Cô điềm tĩnh: “Đúng, chính vì không dễ dàng nên mỗi năm mới có rất nhiều người tự sát, cũng có rất nhiều người mấp mé bên bờ vực tự sát. Chúng sinh lầm than, đối với những người này mà nói, cái chết có lẽ là một sự giải thoát.”
Phương Hàn Tẫn ngồi đối diện, đón lấy ánh mắt cô.
“Nhưng chẳng phải cũng có nhiều người chọn sống tiếp hay sao? Em ngẫm lại đi, Diệp Tử Hàng, cậu ta mồ côi cha mẹ từ nhỏ, ăn cơm trăm họ mà lớn. Còn Trịnh Khải Nhiên, anh ấy đợi một cô gái hết bảy năm, kết quả vẫn lẻ bóng một mình. Cuộc đời họ không cay đắng ư?”
Văn Tuyết thở nặng nhọc, tựa đầu vào sofa, “Anh nói những lời này làm gì? Chứng tỏ họ thảm hơn em sao? Em có hạnh phúc hơn khi thấy cuộc sống ai đó tồi tệ hơn mình không?”
Phương Hàn Tận đứng dậy, chống hai tay lên lưng ghế sofa, nhìn thẳng vào mắt cô.
“Ý anh là, ai sống trên đời mà chẳng trải qua vài chuyện không vừa ý? Có ai không vừa muốn chết quách đi, vừa muốn nỗ lực sống tốt đâu? Chết thì dễ, cứ đứng trên nóc nhà nhảy xuống là hết. Nhưng làm vậy có ý nghĩa gì. Sao mình không thử sống tiếp, biết đâu điều tốt đẹp đang chờ em phía trước.”
Văn Tuyết nhắm mắt, day trán thật mạnh.
“Em hiểu, nhưng cố gắng sống tiếp thì có nghĩa lý gì đây? Sống mà không thấy được ngày mai, sống mà chỉ như một xác chết biết đi… Đã lâu rồi em chẳng cảm nhận được hạnh phúc nữa.”
Phương Hàn Tẫn cúi người hôn lên gương mặt cô, hơi nóng phe phẩy bên tai: “Nhưng mấy ngày qua rõ ràng chúng ta rất vui vẻ. Chúng ta cùng mua sắm, cùng nhau nấu bữa tối, uống cà phê, hôn nhau, làm tình… Sống cả đời như vậy không tốt sao em?”
Xoang mũi Văn Tuyết ê ẩm, vành mắt đọng làn hơi nước.
“Quá muộn rồi…” Cô yếu ớt lắc đầu, giọng nghẹn ngào, “Phương Hàn Tẫn, anh xuất hiện quá muộn. Có lẽ hai năm trước vẫn còn có hy vọng, nhưng bây giờ nhiệt huyết của em đã bị bòn rút hết, em không có hứng thú với bất cứ thứ gì, em chán ghét bản thân, ghét tất cả mọi người. Nghĩ đến tương lai là em lại sợ…”
Mí mắt cô run rẩy, giọt sương tích tụ lại thành nước mắt trượt dài trên má.
Phương Hàn Tẫn ôm lấy mặt cô, mút đi giọt nước mắt nơi khóe môi, thì thầm bên tai cô: “Văn Tuyết, tương lai em còn có anh. Đừng sợ, anh vẫn luôn bên cạnh em mà.”
Văn Tuyết ngước đôi mắt trống rỗng nhìn anh, thều thào: “Giống như bị rơi vào một cái giếng sâu không có ánh sáng vậy, tối tăm và lạnh lẽo, em bấu vào thành giếng gắng sức trèo lên, nhưng càng vùng vẫy lại càng rơi xuống nhanh hơn… Anh hiểu cảm giác này không?”
“Anh hiểu.” Phương Hàn Tẫn nhìn sâu vào mắt cô, lặp lại từng chữ, “Văn Tuyết, anh hiểu cảm giác của em, thật lòng đấy. Vì anh từng trải qua rồi.”
Văn Tuyết bần thần nở nụ cười.
“Anh hỏi em vì sao chú voi kia không thoát khỏi xích sắt rồi trốn ra thế giới bên ngoài phải không. Có người bảo đây gọi là bất lực do học được [1], vì sau nhiều lần thất bại, nó sẽ nảy sinh ý nghĩ dù cố gắng đến đâu cũng không có kết quả, nên nó lựa chọn từ bỏ đấu tranh.”
[1] Bất lực do học được (learnt helplessness): Theo nhà tâm lý học Cherry (2020), bất lực học được định nghĩa là một hiện tượng diễn ra ở cả người và động vật, khi mà tâm trí chúng ta đã bị “cài đặt” rằng chúng ta sẽ không bao giờ có thể chống cự hay thay đổi những nỗi đau, sự khó chịu, sự muộn phiền. Sự cài đặt này không phải tự nhiên mà có, chúng được tao nên qua bao nhiêu phen thử-ngã-thử-ngã, vì thế nó mới có thêm từ học (learnt hay conditioned). Cho đến khi sự thử-ngã này đã quá đủ, cho dù có cơ hội hay khả năng trốn thoát hoặc vượt qua thử thách, chúng ta cũng không muốn cố gắng nữa.
“Thật ra voi là loài rất thông minh, nó biết mình có thể thoát thân một cách nhẹ nhàng, nhưng bên trong nó đã chết từ lâu rồi. Thế giới ngoài kia có đẹp xinh thế nào cũng đâu còn ý nghĩa gì với nó?”
“Một con voi, lẽ ra phải lớn lên trong rừng rậm, ăn quả trên cây, uống nước trong suối, tự do vui đùa trong đầm lầy. Thế mà nó lại bị giam cầm trong rạp xiếc, quanh quẩn bên cái cọc gỗ, hứng chịu làn roi của người thuần thú, học các động tác hài hước chỉ để tranh được tiếng hò reo của nhân loại. Sống một cuộc đời như vậy quả thật đáng buồn.”
“Thế giới của nó định sẵn là bóng tối, anh để nó chạy trốn, nó có thể chạy đến đâu? Chạy như điên trên đường phố đông người qua lại? Hay trốn vào một tòa nhà bằng bê tông cốt thép? Hay trong lồng sở thú? Trên đời này đâu còn chỗ nào cho nó dung thân?”
“Bất kể là voi hay người, một khi ánh sáng trong lòng đã tắt, đi đến đâu cũng chỉ thấy một màu tuyệt vọng…”
Giọng Văn Tuyết nghẹn đắng, không thốt nên lời được nữa.
Phương Hàn Tẫn nhìn cô chăm chú, vươn tay dịu dàng lau đi giọt nước mắt nơi khóe mi cô.
“Văn Tuyết, ánh sáng tắt rồi vẫn có thể thắp lại. Nếu con đường phía trước không có ánh sáng, anh nguyện làm ngọn đèn dẫn lối em.”
Văn Tuyết mấp máy môi, nụ cười chan chứa bi thương.
“Phương Hàn Tẫn, anh có cuộc sống của anh. Anh tốt nghiệp trường danh tiếng, ngoại hình ưa nhìn, lại có đầu óc kinh doanh, không vướng bận nợ nần, tương lai xán lạn. Không cần phải lãng phí thời gian với một người không có tí hy vọng nào như em.”
Phương Hàn Tẫn cúi đầu, im lặng một lát mới nhẹ giọng hỏi: “Văn Tuyết, em có bằng lòng nghe chuyện của anh không?”
“Anh đã kể với em rồi. Chuyện của bố mẹ anh, em rất tiếc, nhưng…” Văn Tuyết nói tới đây, nước mắt lại tuôn rơi.
Cô điều chỉnh nhịp thở, tiếp tục: “Nhưng mà, ít nhất anh đó có được tình yêu thương trọn vẹn, còn em thì sao? Vừa sinh ra đã bị bố mẹ ném về nông thôn sống với ông bà nội, lên tiểu học mới được đón về nhà. Em dè dặt quan sát sắc mặt họ, tranh làm việc nhà, liều mạng học tập chỉ để lấy lòng họ, nhưng rồi có ích gì? Họ chỉ xem em là công cụ kiếm tiền dưỡng lão, chưa từng yêu thương em!”
Lòng Phương Hàn Tẫn quặn thắt, khổ sở không nói nên lời, thầm nghĩ muốn ôm chặt lấy cô.
Sau một khoảng im lặng, anh thấp giọng giảng giải: “Văn Tuyết, em phải chấp nhận sự thật rằng không phải bậc cha mẹ nào cũng yêu thương con cái của họ. Những người không thương em, em không cần phải yêu thương họ, càng không cần phải dốc sức lấy lòng. Vì họ không xứng đáng.”
“Em hiểu, em cũng từng khuyên mình như thế.” Văn Tuyết gục đầu bên vai anh, suy sụp bật khóc, “Nhưng có đứa bé nào không muốn được cha mẹ mình yêu thương đâu anh?”
“Văn Tuyết…” Phương Hàn Tẫn không thốt nên lời an ủi, chỉ biết hôn lên tóc mai cô, ôm cô thật chặt.
Khóc đã đời, Văn Tuyết bèn dừng lại, khịt mũi, giọng nói khản đặc chêm chút mỉa mai: “Vả lại quan hệ giữa anh và em trai rất khăng khít, còn em thì sao? Em trai em chỉ biết tìm em đòi tiền, vì bố mẹ trọng nam khinh nữ nên từ bé nó cũng chẳng coi em ra gì, sai sử em như người giúp việc… Vậy nên so với em, cuộc sống của anh đã là hạnh phúc lắm rồi.”
Phương Hàn Tẫn từ từ buông cô ra.
Nhìn đôi mắt sưng đỏ của cô anh cũng không nén được chua xót, chỉ có thể hít thở sâu bình ổn lại tâm trạng.
“Chuyện của anh, cũng giấu đi phần sau.” Giọng anh run run, “Em còn muốn nghe chứ?”
Bầu không khí trong phòng ấm áp, cửa sổ được đóng chặt. Đèn trần đã tắt, chỉ để lại một ngọn đèn nhỏ gần sofa tỏa chùm sáng vàng dìu dịu.
Trên bàn còn đặt hai tách trà bốc hơi nóng.
Văn Tuyết ôm đầu gối rúc trong góc sofa, im lặng nghe Phương Hàn Tẫn kể lại.
“Lúc trước anh từng nói năm cuối đại học, mẹ anh bị bệnh, công ty bố anh phá sản, bán hết của cải trong nhà lẫn công ty cũng không đủ để trả nợ chứ đừng nói tới việc chạy chữa cho mẹ. Vào thời điểm đó, chi phí hóa trị và thuốc men mỗi tháng của bà ít nhất cũng năm vạn.”
“Giáo sư La biết chuyện nhà anh, cho anh mượn không ít tiền, còn kéo anh vào tổ dự án của ông. Bình thường chỉ có sinh viên tốt nghiệp mới có tư cách làm chung dự án với thầy, nhưng ông lại phá lệ mời anh vào, trả cho anh hai ngàn trợ cấp mỗi tháng. Để trả ơn ông ấy, anh đã làm việc rất chăm chỉ, năm cuối cũng không nhiều lớp, anh ngâm mình trong văn phòng mỗi ngày, giúp ông ấy tìm kiếm tài liệu, dịch thuật, phân tích dữ liệu.”
“Những người khác trong nhóm cũng là nghiên cứu sinh do một tay giáo sư La dẫn dắt. Một trong số họ có cậu sinh viên Ấn Độ tên Kumar. Cậu ta có nghe về gia đình anh nên ngỏ ý muốn giúp đỡ.”
Ấn Độ? Trong đầu Văn Tuyết bỗng hiện lên một khuôn mặt – người đàn ông cà-ri trên tàu, da sẫm màu, vẻ mặt u ám, còn tỏa ra mùi cơ thể nồng nặc.
Cô có dự cảm những gì mình sắp nghe không phải điều gì hay ho cho lắm.
Đợi đã… Ấn Độ?!
Văn Tuyết bất chợt trợn tròn mắt, giọng cao vút: “Không phải cậu ta định giúp anh…”
Lời còn chưa dứt đã bị cô dằn lại.
Suy đoán kiểu này có vẻ quá chủ quan, lỡ đâu người ta thật lòng muốn hỗ trợ thì sao?
Phương Hàn Tẫn nhếch môi, ý cười đượm chua xót.
“Em đoán không sai, cậu ta nói có thể giúp anh mua thuốc.” Ung thư giai đoạn cuối, một liệu trình thuốc ít nhất phải ngốn mất ba mươi vạn, nhưng nếu mua được thuốc điều chế từ Ấn Độ thì chỉ tốn năm ngàn tệ.
“Chuyện này…” Suy nghĩ Văn Tuyết rối bời, bao lo âu trào dâng trong lòng, “Người này có đáng tin không? Thuốc điều chế có hiệu quả tương tự thuốc thường chứ? Với lại anh muốn thuốc thông qua cậu ta liệu có bất hợp pháp không vậy?”
Tay chân Phương Hàn Tẫn lạnh cóng. Anh cầm tách trà lên nhấp một ngụm nóng, cố nén nỗi buồn vào lòng.
“Kumar nói rằng các sinh viên Ấn Độ từng tổ chức một nhóm thu mua để giúp mọi người mang thuốc từ Ấn Độ sang. Họ đã làm chuyện này rất nhiều lần trước đây và chưa có tiền lệ gặp rắc rối. Lúc ấy đúng là anh phát sầu vì chuyện thuốc men, cho nên mới…”
Anh gục đầu xuống nhìn đăm đăm vào vệt bẩn trên ghế sofa, đợi thật lâu mới tiếp lời: “Cho nên mới mua thuốc mấy lần thông qua cậu ta.”
Trái tim Văn Tuyết thắt lại, cô hỏi tiếp: “Sau đó thì sao?”
“Sau đó thuốc của cậu ta càng lúc càng đắt, lúc đầu là năm ngàn, sau đó tăng lên một vạn, lần cuối cùng lên thẳng lên hai vạn.” Trên gương mặt Phương Hàn Tẫn lộ vẻ căm phẫn, “Thuốc chính hãng bán ba vạn, thuốc điều chế lại mất những hai vạn. Với lại anh có hỏi thăm rồi, nếu mua từ tiệm thuốc bên Ấn chỉ cần hai ngàn thôi, buôn giá sỉ ở xưởng dược lại càng rẻ. Nhóm người này thật sự quá tham lam, bệnh nhân ung thư trong mắt họ chỉ là cây rụng tiền. Ban đầu chào giá thấp để thu hút khách, sau đó càng ngày càng đắt, bởi vì họ nghĩ bệnh nhân ung thư sống không được bao lâu, mà người nhà bệnh nhân nhất định sẽ hao hết tiền bạc để cứu chữa. Thế nên cứ vơ vét bao nhiêu hay bấy nhiêu.”
“Lần cuối mà anh nói, có phải là…” Văn Tuyết lưỡng lự, cẩn thận cân nhắc từ ngữ, “Là trước khi mẹ anh qua đời, lần trị liệu cuối cùng à?”
Phương Hàn Tẫn lắc đầu, sắc mặt vô cùng nghiêm trọng.
Thật lâu sau, giọng nói trầm khàn của anh lại vang lên: “Anh không muốn mua thuốc từ cậu ta nữa, nhưng việc điều trị của mẹ cũng không thể chậm trễ. Trong thời gian đó, anh tình cờ biết được một tin: Dự án của giáo sư La bước vào giai đoạn nghiên cứu thực địa, ông dự định đưa vài sinh viên đi cùng. Nơi đến chính xác là Bangalore, Ấn Độ.”
Lòng Văn Tuyết chùng xuống, lập tức siết chặt nắm tay.
Phương Hàn Tẫn vô thức chà xát vết nhơ trên sofa, im lặng không biết bao lâu mới lại nhẹ giọng nói: “… Anh đã làm một chuyện sai trái.”
Văn Tuyết ngơ ngẩn nhìn theo tay anh, vết bẩn màu nâu kia đã khô từ lâu, không nhìn rõ là bị thứ gì văng lên, có lẽ là dầu mỡ, cũng có thể là máu.
“Anh đã nộp đơn xin giáo sư La cho mình đi cùng. Khi đó ông ấy rất tin tưởng anh, nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để xin thêm trợ cấp cho anh nên mới đồng ý. Trong thời gian nghiên cứu, anh đã lẻn ra ngoài, đến rất nhiều hiệu thuốc mua tất cả các loại thuốc có thể mua, đủ để mẹ anh trị liệu trong vòng một năm.”
Văn Tuyết vừa bực vừa giận, không kiềm được cao giọng hỏi: “Anh đem nhiều thuốc vậy về nước chẳng lẽ hải quan không tra ra?”
“Anh cũng lo chuyện này. Sau đó, một chủ hiệu thuốc nói với anh nếu anh muốn mang thuốc về nước, thì anh ta có cách khác – một người họ hàng của anh ta đang làm kinh doanh vận tải biển, quen biết rất rộng, miễn là anh trả đúng số tiền đó thì anh ta có thể giúp anh giải quyết suôn sẻ.”
“Trùng hợp vậy sao?” Văn Tuyết nửa tin nửa ngờ.
Phương Hàn Tẫn cười khổ, “Thật ra rất nhiều người đi Ấn Độ mua thuốc, hoặc là người nhà bệnh, hoặc là bán thuốc kiếm tiền. Ông chủ hiệu thuốc không lạ gì mấy chuyện này, vì vậy họ không chỉ bán thuốc mà còn giúp tìm cách vận chuyển hàng hoá, cái này gọi là dịch vụ trọn gói.”
“Vậy anh không gặp bất trắc gì chứ?”
Phương Hàn Tẫn khẽ lắc đầu, “Sau khi về Bắc Kinh chưa đầy một tuần, anh đã lấy được thuốc. Cả thảy chi phí tính ra ít hơn hai vạn. Biến cố duy nhất là anh mua thuốc trong vòng một năm, nhưng mẹ anh chỉ dùng được hai tháng đã đi rồi.”
Văn Tuyết cầm tay anh, đau lòng không thốt thành câu.
Mặc dù cô đã biết trước kết cục của bà Phương, nhưng mỗi lần nhớ lại, nhất là khi đặt mình vào hoàn cảnh của Phương Hàn Tẫn cô vẫn không kiềm lòng được mà thổn thức. Cuộc đời khổ sở biết bao, thế sự đúng là vô thường.
Âm thanh của Phương Hàn Tẫn như con dao cùn, chậm rãi cứa vào lòng cô: “Về sau, anh lại đi lầm đường lần nữa.”
“Mẹ mất chưa bao lâu, bố anh cũng tự sát, để lại cho anh một đứa bé hai tuổi cùng với khoảng nợ khổng lồ. Chủ nợ tìm được trường anh, xông vào ký túc xá làm ầm ĩ, còn kéo biểu ngữ dưới lầu ký túc, bắc loa hô to Cha nợ con trả…”
“Để trốn nợ, cũng để tiện chăm sóc Xuân Sinh, anh thuê một căn hộ nhỏ ngoài trường học. Sau khi trả tiền thuê, anh cũng chẳng còn một xu dính túi. Khi lâm vào ngõ cụt, anh đột nhiên nhớ tới số thuốc anh từng mua.”
“Trước đây, để chữa bệnh cho mẹ, anh được thêm vào một nhóm người thăm nuôi bệnh nhân, trong đó đều là người nhà của bệnh nhân ung thư. Anh gửi tin trong nhóm, nói rằng mẹ mình vừa qua đời, còn dư lại một số thuốc chưa tháo nhãn, nếu ai cần anh có thể bán với giá thấp.”
“Rất nhanh đã có người liên hệ với anh, chỉ trong vòng một ngày thuốc đã được bán hết, anh kiếm được năm vạn.”
Văn Tuyết siết chặt tay anh, sững sờ nhìn anh, con ngươi vì khiếp sợ mà hơi co lại.
Phương Hàn Tẫn hiểu rõ cô muốn nói gì.
“Anh biết, đây là vi phạm pháp luật. Nhưng anh thật sự không còn cách nào khác.” Anh thở dài, rút tay về day mi tâm, “Anh trả tiền cho chủ nợ, cuộc sống tạm thời trở về yên bình. Đáng tiếc không lâu sau anh bị người khác tố cáo.”
“Gì cơ?!” Văn Tuyết lập tức ngồi thẳng dậy, không dám tin nhìn anh.
Phương Hàn Tẫn quay đi, lảng tránh ánh mắt cô, điềm nhiên nói: “Lúc đó anh mới biết, Kumar, chính là cậu học sinh Ấn Độ kia, cũng ở trong nhóm đó. Kể từ khi anh đến Ấn Độ nghiên cứu, cậu ta đã nghi ngờ anh, bởi vì anh không mua thuốc từ cậu ta nữa, sau lại còn bán thuốc trong nhóm… Cậu ta tìm đến những người mua thuốc từ anh, hỏi thăm từng người một, thu thập bằng chứng, sau đó báo cáo lên trường.”
Văn Tuyết tức giận mắng: “Có phải cậu ta bệnh không! Chính cậu ta cũng là tên buôn thuốc, dựa vào đâu mà đi tố cáo người khác?”
Phương Hàn Tẫn châm chọc: “Bởi vì anh cướp mối làm ăn của cậu ta. Nếu ai cũng như anh, đến Ấn Độ mua thuốc thì băng nhóm của cậu ta tồn tại kiểu gì được?”
Vẻ mặt anh rất bình tĩnh, tựa như đã nghĩ thông rồi, nhưng Văn Tuyết vẫn tức giận không thôi. Cô dùng những lời khó nghe nhất trong từ điển của mình, đay nghiến cái tên chưa từng gặp mặt kia.
Mắng một hồi mới nhớ tới chuyện chính: “Vậy sau đó thì sao?”
“Sau đó ấy à,” Ánh mắt Phương Hàn Tẫn u tối, cổ họng đắng chát, “Sau đó anh bị trường đuổi học.”
Văn Tuyết tức thì chết lặng.
Giọng Phương Hàn Tẫn đều đều: “Cho nên dù có thư giới thiệu học nghiên cứu sinh nhưng anh không thể học tiếp được. Không thể tìm một công việc chính thức, chỉ có thể chạy việc vặt khắp nơi. Cuộc sống của anh bị hủy hoại hoàn toàn. Còn tên Kumar đó lại sống rất tốt, nghe nói sau khi tốt nghiệp cậu ta đến làm ở một công ty đa quốc gia, tiếp tục sống cuộc sống hào nhoáng của mình. Còn anh ư, qua một đêm, rơi từ tháp ngà xuống mặt đất, chẳng còn gì hết.”
Văn Tuyết trào nước mắt, nhào tới ôm lấy anh, cô nức nở: “Tại sao lại như thế? Tại sao họ làm vậy với anh? Anh đã làm gì sai chứ? Anh mua thuốc kia vốn chỉ để chữa bệnh cho mẹ mà, có phải anh muốn buôn lậu đâu! Sao anh không giải thích rõ ràng với họ?”
Cô bất bình trước những gì gã người Ấn và trường học đã làm, song nhiều hơn thế nữa, chính là sự đau lòng.
Cô thật lòng muốn trở lại khi đó, kiên định kề vai sát cánh cùng Phương Hàn Tẫn, tranh đấu vì anh, vượt qua khó khăn bên cạnh anh. Dẫu không thể giúp được gì, không thể thay đổi kết quả, thì ít nhất cô còn có thể ôm lấy anh, trao cho anh chút hơi ấm trong nỗi tuyệt vọng cùng cực.
Phương Hàn Tẫn nghiến răng, bả vai khẽ run rẩy. Mãi lâu sau, anh cũng vươn tay ghì chặt lấy cô.
Anh vùi đầu vào cổ cô, khuôn mặt nóng bỏng dán lên da thịt cô, giọng nói trầm thấp vì muốn át đi sự run rẩy: “Sau khi bị đuổi, anh tự nhốt mình trong căn phòng nhỏ, mấy ngày mấy đêm không ăn gì, không ra ngoài, người không ra người quỷ chẳng ra quỷ. Lúc ấy trong đầu anh cũng đã nung nấu ý định tự sát rồi. Nhưng rồi vẫn quyết định sống tiếp, bởi vì trong lòng anh tồn tại một tâm niệm.”
“Vì Xuân Sinh?”
“Không.” Phương Hàn Tẫn lắc đầu, “Là vì chính mình. Anh đã nghe một câu: Cái gọi là vực sâu không đáy, nếu thực sự đi xuống, phía trước là tiền đồ vạn dặm [2]. Anh đã từng ở thời khắc tăm tối nhất của cuộc đời, sau này mỗi bước đi đều hướng tới ánh sáng.”
[2] Câu này có hàm ý rằng cái thái cực của sự vật sẽ đảo ngược, khi sự vật phát triển đến mức độ nào đó, chúng sẽ biến đổi theo hướng ngược lại. Là một câu trong tác phẩm “Tố lí dĩ vãng” của Mộc Tâm.
Ngón tay anh đan vào mái tóc dày của cô, lòng bàn tay ấm áp nâng gáy cô, vuốt ve từng sợi tóc mềm mại như đang dịu dàng an ủi.
“Những lời này dành tặng cho em. Văn Tuyết, cố gắng sống vì chính mình một lần được không? Anh sẽ luôn ở cạnh em, cùng ra khỏi đáy vực sâu thẳm, đi tới tiền đồ vạn dặm.”